Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tây Phương Du Ký (truyện kể của Pháp sư Khoan Tịnh)

01/05/202016:25(Xem: 12460)
Tây Phương Du Ký (truyện kể của Pháp sư Khoan Tịnh)

Phat Di DaTay Phuong Du Ky



TÂY PHƯƠNG DU KÝ

TAM THÁNH TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:

Pháp sư KHOAN TỊNH

 

Lược thuật:

LƯU THẾ HOA

 

Việt dịch:

HỮU TỪ, TÂM HẢO

QUAN ÂM TU VIỆN LƯU HÀNH 


LỜI  GIỚI  THIỆU

Trong Luận Tỳ-Bà-Sa của Ngài Long-Thọ Bồ-Tát có lời xưng tán Phật A-Di-Đà đại lược như vầy:

Nếu ai nguyện làm Phật

Tâm niệm A-Di-Đà

Phật liền hiện thân đến

Cho nên tôi quy mạng

Do bổn nguyện của Phật

Nên thập phương Bồ-Tát

Đến cúng dường nghe pháp

Vì thế tôi cúi đầu

Bồ-Tát ở Cực-Lạc

Thân xinh đẹp trang nghiêm

Đủ cả các tướng hảo

Nay tôi quy mạng lễ

Bồ-Tát ở Cực-Lạc

Ngày ngày trong ba thời

Cúng dường thập phương Phật

Nên tôi cúi đầu lạy.

Nếu người trồng căn lành

Nghi thời hoa không nở

Người tín tâm thanh tịnh

Thời hoa nở thấy Phật.

Hiện tại thập phương Phật

Vì muốn độ chúng sanh

Mà ca tụng Di-Đà

Nên tôi quy mạng lễ.

Cõi đó rất trang nghiêm

Thanh tịnh hơn Thiên cung

Công đức rất sâu dày

Nên tôi lạy chơn Phật.

 

Bài kệ này thắp sáng lên niềm tin cõi tịnh độ và cũng xưng tán công đức bổn nguyện của Phật A Di Đà để cho chúng ta thấy bổn nguyện lực của Từ phụ A Di Đà, Bồ Tát, Thánh chúng cõi Tây phương, cảnh giới trang nghiêm diệu mầu của cõi Cực Lạc. Nếu ai là liên hữu tu Tịnh độ sẽ thấy không pháp môn nào dễ tu dễ chứng và mau thành Phật bằng pháp môn niệm Phật.

 

Nên Đức Đại Thế Chí trong Pháp Hội Thủ Lăng Nghiêm đã dạy: "Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền cùng đương lai quyết định thấy Phật, gần Phật". Bồ Tát nói: "Phật thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con". Cảm động thay! Chúng ta nên thiết tha nhớ Phật và chí tâm niệm Phật để khỏi phụ lòng nhớ thương của Phật.

 

Trong Tống-Cao-Tăng Truyện Phật Tổ Thống Ký, Đức Quán-Thế-Âm Bồ Tát hiển Thánh dạy Ngài Huệ Nhựt như vầy: "Ông muốn truyền pháp để độ mình, độ người thì nên chuyên niệm TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI A DI ĐÀ PHẬT và phát nguyện vãng sanh, lúc về Cực Lạc thấy Phật và Ta thời được lợi ích lớn, Ông nên biết rằng Tịnh độ pháp môn hơn tất cả các hạnh khác".

 

Đức Văn Thù Bồ Tát cũng dạy: "Các môn tu hành, không môn nào qua môn niệm Phật cả. Niệm Phật là vua trong các pháp môn".

 

Ngài Ấn Quang Đại Sư cũng nói: "Cửu giới chúng sanh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả. Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp quần sanh".

 

Pháp môn tu Tịnh độ là pháp môn siêu thắng cuả Đức Như Lai, mà Từ Phụ Thích Ca đã gọi Ngài Xá Lợi Phất để tuyên bày cảnh giới Tây phương Cực Lạc, cũng vừa là dạy Ngài Xá Lợi Phất, hàng môn đệ tại tiền và để lại một pháp môn phương tiện để tu, để chứng cho tất cả chúng sanh sau này nương theo nguyện lực cuả Phật tu hạnh thù thắng niệm Phật để được vãng sanh.

 

Ôi! Công đức sâu dày cuả đấng Đại Bi Hùng Lực đã làm sáng chói hiện tiền cho môn đệ tu hành chứng đắc không biết bao nhiêu quả Bồ Tát thánh thiện siêu nhân, lại còn hoài bão thương nhớ chúng sanh thấp hèn chìm đắm trong bể khổ sông mê nên mở ra cửa pháp Tịnh độ. Nếu người tin sâu lập nguyện, lập hạnh tu hành chín chắn thì được vãng sanh về nước An Lạc không còn chịu tất cả những sự thống khổ của cõi Ta Bà.

 

Lành thay! Quý hóa thay! Pháp môn Tịnh Độ! Pháp môn này không dành riêng cho tất cả chúng sanh ở trình độ căn bản cơ thấp hèn mà Phật, Bồ Tát, các Đại Sĩ, chư Tôn đều ca tụng khen ngợi là pháp môn thù thắng cuả Như Lai. Từ ngàn xưa đã có biết bao nhiêu vị tu được vãng sanh có chứng tích rõ ràng, cả xuất gia và tại gia.  Pháp môn này nếu ai nguyện làm Phật, tâm niệm A Di Đà, Phật liền hiện thân đến.

 

Thập phương chư Phật, vì muốn độ chúng sanh mà ca tụng A Di Đà.  Hiện nay gần nhất là Ngài Pháp Sư Khoan Tịnh, Ngài đã tu thiền, niệm Phật và may mắn được Bồ Tát Quan Âm hiện đến tiếp độ thần du các cảnh giới Tam Thánh Tây Phương rồi về (từ 25-10 âm lịch 1967 và trở lại nhân gian 08-04 âm lịch 1973). Ngài đã thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà (Tân Gia Ba) tháng 04-1987. Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép lại những lời khẩu thuật này thành tập "TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI DU KÝ" bằng chữ Hán, Phật tử Hữu Từ và Tâm Hảo đã dịch ra quốc ngữ.

 

Với tâm tu tịnh độ, tôi nghiên cứu đọc qua thấy có phần lợi ích cho các liên hữu tu tịnh độ. Cũng như thả thuyền ra khơi mà được thuận buồm xuôi gió thì thuyền sẽ đến nơi được an ổn. Người tu pháp môn niệm Phật được duyên may đọc tập truyện này sẽ thấy phấn khởi, duyên tu thêm tinh tấn, tín niệm được kiên cố, hạnh nguyện sớm được viên mãn trên bước đường về Lạc Quốc.

 

Cho nên Ngài Cổ Khê Thiền sư cũng nói lên lời kệ khuyến khích:

 

Đường tu mười vạn một đầu lòng

Ai gọi trời Tây lộ viễn vông

Cảnh Phật chung ngoài tâm thấy được

Chơn dung nơi định vẫn thường trông.

Ngài Tây Trai cư sĩ cũng đã nhắn nhủ đôi dòng kệ:

Sớm về an dưỡng mà ngơi nghỉ

Đừng đối Ta Bà luận có không

Lửa nghiệp khi lừng dùng nước định

Niệm trần lúc khởi gắng ra công

Nén hương thiêng lễ ba ngàn Phật

Xâu chuỗi cần chuyên một tấc lòng

Xót cảnh mẹ già trông tựa cửa

Hững hờ du tử chạy tây đông

Ôi!  Mặc ai lưu luyến lối hiểm sơn khê

Trăng gió cố hương vẫn chờ người viễn khách.

 

Vậy các liên hữu còn chần chờ chi mà không tín, hạnh, nguyện, tinh tấn niệm Phật.

 

Đây cũng bài kệ xưng tán Đức Phật A Di Đà mà Ngài Long Thọ Tôn Giả cũng nói và diễn rõ các giới tánh, cảnh giới Cực Lạc như thế này:

 

Nếu người muốn biết rõ

Chư Phật trong ba đời

Nên quán pháp giới tánh

Tất cả duy tâm tạo.

 

Ngài ví dụ người tu Tịnh độ như một kẻ họa sư kia do một tâm chuyển biến, không lìa nơi ngòi bút mà tạo thành cung Bảo Vương nơi Cực Lạc. Ôi! Thanh tịnh nhiệm mầu huyền diệu thay nếu có duyên niệm Phật, do một niệm lành kia sẽ được ngôi bất thối. Thật là đường muôn ức không xa, ngay đây niệm Phật là đầy đủ.

 

Nguyện tất cả những ai được đọc và nghe thấy quyển "TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC DU KÝ" nầy đều được công đức hồi hướng Tây Phương Trang Nghiêm Tịnh Độ, Đệ tử và chúng sanh về nước An-Dưỡng.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Mùa An Cư năm Tân Mùi 1991

QUAN ÂM TU VIỆN

 

Thành ý kính đề

Ni sư HUỆ GIÁC

 




LỜI  NÓI  ĐẦU

Nội dung chủ yếu quyển này, giới thiệu Ngài Đại Pháp Sư KHOAN TỊNH Trung Quốc.

 

Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích.

 

Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.

 

Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp sư đâu, đổ xô đi tìm, tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn bãi biển, cứu nạn thác ghềnh vẫn không thấy. Một số thiện tín nhiệt thành, còn tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyên Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam Bình kiếm tìm. Còn gởi thơ nhờ các tỉnh, huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức gì sáng sủa cả.

 

Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng thương tiếc vô cùng.  Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp Sư chưa hề rời khỏi động Di Lặc nửa bước, do được Phật hộ nhục thể để trong động những sáu bảy năm ròng mà không bị phát hiện, không bị nhục hư, cũng không rõ là được dấu ở đâu (rất có thể dấu ở một dạng không gian khác), về điểm này có các cư sĩ ở đây xác minh được, như tu sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.

 

Suốt quá trình dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc này, không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị Tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu dệt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng ngữ làm gì, hơn nữa cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới nào của thiền định đã thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem ra tiếc lộ, nếu không Tam Bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến quấy nhiễu được.

 

Đằng này Pháp Sư đã nhận chỉ thị của Đức Phật A DI ĐÀ và Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM nên mới công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chín phẩm hoa sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết trình bày ra đây.

 

Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống ngục Vô Gián, khó có ngày ra, vì thế mà những Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngàn vạn lần, có tam giới Thần Tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng.

 

Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một Thế Giới Cực Lạc mà Đức Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan-Tịnh Đại Pháp Sư là một chứng nhân sống về việc ấy.

 

Bút giả Cư Sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại, công bố cho thế gian, vừa để hoằng dương Phật Pháp, vừa nguyện chư vị độc giả dốc tin Phật Pháp, một lòng niệm Phật, một lòng hành thiện, cùng bước lên thế giới Cực Lạc.

 


 

TÂY PHƯƠNG DU KÝ

(TÂY-PHƯƠNG CỰC-LẠC THẾ GIỚI DU KÝ)

 

 Đại Pháp Sư THÍCH KHOAN TỊNH khẩu thuật và cư sĩ  LƯU THẾ HOA hoàn chỉnh và ghi lại.

 

+ Một câu chuyện người xưa chưa hề nói, vang động ngàn xưa, chói lọi ngàn sau.

+ Một câu chuyện do chính vị cao tăng thân hành đến nơi, được thấy, được nghe mà diễn nói lại.

 

*  Lược sử:  KHOAN TỊNH Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng bảy năm Giáp Tý (1924). 

 

Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc Huyện Bồ Điền, Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan.

 

Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây hai hướng ánh vàng óng chớp liên hồi khiến cả một cõi đất nơi ấy như vàng ròng óng ánh, vinh diệu, nên lấy đó đặt tên Ngài là Phan Kim Vinh.

 

Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, 7 tuổi đã rời nhà tu tập tại chùa Giáo Trung, Phước Kiến; 15 tuổi chính thức phủi tóc quy y với thầy Hư Vân lão Hòa Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Bình Khai, Phước Kiến. 17 tuổi thọ cụ túc giới tại chùa Nam Hoa, Quảng Đông, lại thọ chánh nhãn Pháp tạng với Thầy Hư Vân lão Hòa Thượng tại núi Vân Cư, Giang Tây, là người truyền đăng, đời thứ 48 của Tông Động Vân, từng làm Trụ trì một số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế Bình, chùa Thủy Liêm, chùa Tiên Phật, chùa Năng Nhân, chùa Khai Bình, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội.

 

Lúc Trụ trì ở chùa Tam Hội thuộc Huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23/12, ngồi riết đến ngày 29/12 mới xả, cọng lại cả 6 ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả Huyện Tiên du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn 3000.

 

Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên dương Phật pháp, đã từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San-Phan, Mỹ Châu, chùa Nhã Na, chùa Quán Thế Âm v.v... Đúng là một vị nho tăng Đắc đạo.

 

*  Đại Pháp Sư thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà (Tân Gia Ba) vào tháng tư năm 1987.

 

Chư vị Pháp Sư, Chư vị Đại Đức, Chư vị cư Sĩ.

 

Kính chào tất cả chư vị,

 

Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây, cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước.  Đó là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau tại nơi này.

 

Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá trình bản thân tôi hành dấn bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ những cảnh giới, tình hình được thấy, được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vị.

Tôi sẽ nói thành 5 phần như sau:

 

1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào?  Với nhân duyên gì có thể đến nơi ấy được?  Thật ra thì tôi viếng thế giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn chừng 20 tiếng đồng hồ trong ý nghĩ tôi ước đoán, thế mà về tới thế gian này so lại, đã trôi qua 6 năm 5 tháng dài.

 

2. Trên lộ trình tôi đến thế giới Cực Lạc, tuần tự ghé qua địa phương nào, kể thì có động La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến 3 địa điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa (ghi nhận rằng: mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm 3 bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp thành cửu phẩm Liên hoa). Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của 3 địa điểm chính ấy như thế nào.

 

3. Tôi sẽ nói về tình hình vãng sanh vào 9 phẩm Liên Hoa như thế nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu trì như thế nào để được công quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới Ta Bà này, mà định đoạt sẽ được vãng sanh vào phẩm nào trong 9 phẩm Liên Hoa ấy, và tình hình sinh hoạt thực tế của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ:  Đặc trưng thân hình, mầu sắc y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.

 

4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu trì của chúng sanh trong nước Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: tức là nói chúng sanh trong từng phẩm một, tu trì như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên mãi đến thành Phật đạo.

 

5. Sẽ trình bày lại lời của chư vị ở trên ấy mà trước nay tôi biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại Ta Bà này, dặn dò tôi chuyển lời lại chư vị ở Ta Bà như thế nào.

pdfTây Phương Du Ký_Pháp Sư Khoan Tịnh








Ý kiến bạn đọc
09/05/202014:44
Khách
Rất mong đây là ưu tư chân thành về tiền đồ của GHPGVNTN chứ không phải là bài "tiền phong" để chuẩn bị một "lãnh đạo" có tầm chính trị trong một tố chức nào đó để thay thế Thầy Tuệ Sỹ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 9426)
Ngôi chùa nhỏ với không gian yên tĩnh nằm bên dòng suối Đó giáp ranh giữa xã Tân Phước và phường Tân An, thị xã La Gi có cái tên rất thanh vắng, tịch mịch “Thanh trang lan nhã” . Chùa do một vị Đại đức tuổi trung niên làm trụ trì, nhà sư Thích Tấn Tuệ. Sư Tấn Tuệ tên thật là Đinh Văn Thành (SN 1960), quê ở làng Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông quy y từ lúc còn nhỏ được đào tạo học hành chu đáo, đi lại nhiều nơi nên kiến thức sâu rộng.
01/02/2021(Xem: 10756)
Nói thiệt lòng, tâm trạng của tôi mấy ngày qua vô cùng... bất ổn, tinh thần có chiều xuống dốc, phần vì "thử thể bất an", phần vì chuyện đời có nhiều đột biến vào năm cùng tháng tận, đã bình thản đương đầu đối chọi bằng các phương pháp tu niệm hành trì, giữ niềm tin vững chãi, liên tục ra vào các chốn già lam để lễ Phật bái Tăng, tác nghiệp thi văn... nên chế ngự được nhiều chướng duyên nghịch cảnh, nhưng nghiệp duyên quá khứ vẫn còn đầy dãy, vẫn đến đó, vẫy tay cười chào như chế giễu, thử thách...
30/01/2021(Xem: 6122)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
19/01/2021(Xem: 23574)
Đức Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 07/07/2020 (17/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. Bài kệ số 16: ĐỨC PHẬT TỲ BA THI 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Nhẫn nhục đệ nhất đạo Phật thuyết vô vi tối Xuất gia não tha nhân Bất danh vị sa môn. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật. (1 lạy) Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục Là pháp tu thứ nhất, Pháp vô vi tột cùng. Cho nên người xuất gia Gây khổ não cho người, Thì không gọi “sa môn”. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
18/01/2021(Xem: 8961)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
10/01/2021(Xem: 5484)
8 giờ tối mùa Đông Âu Châu nói chung, Thụy Sĩ nói riêng thật thê thảm. Trời tối đen, lạnh cóng, trên đường không bóng người qua lại. Đã vậy thêm dịch bệnh covid 19 kéo dài mấy tháng nay, mọi người bị giam hãm lâu ngày đã ê chề, nay thời tiết như thế càng ảm đạm thê thảm hơn. Vào mùa này, ngay cả người bản xứ còn than vãn, chán chường, huống chi người Việt tha hương buồn đến...thúi cả ruột! Gần nhà tôi có cái thung lũng tình yêu, gặp lúc thất tình, tuyệt vọng, có người còn nhảy xuống tự tử mắc công chính quyền sau này phải giăng lưới hứng họ! Nhưng chính trong không gian ảm đạm như thế càng tăng thêm sự ấm áp thân thương khi nhìn thấy, dù chỉ qua màn hình và nghe tiếng nói của vị đạo sư tôi hằng kính mến, không ai xa lạ, còn có nhân duyên quen biết từ mấy chục năm nay, đó là Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển. Thầy không ở đâu xa, hiện diện ngay trước mặt đây thôi xua đuổi hết bao cảm giác cô đơn lạnh lẽo nơi xứ người.
10/01/2021(Xem: 5323)
Đã lâu lắm rồi, từ lúc cơn dịch Covid-19 hoành hành đến giờ chúng tôi (Hoa Lan và Nhật Hưng) chưa được cùng nhau viết chung một đề tài về Phật pháp. Tưởng chừng ngòi bút sẽ rỉ mòn theo Covid, làm gì còn các khóa tu học mà viết bài tường thuật. Một nỗi buồn sâu lắng! Thế nhưng sáng nay, ngày thứ hai đầu tiên trong năm 2021 mùng 4 tháng giêng, nhận được tin nhắn khẩn cấp của Nhật Hưng qua Viber, phải gắn chương trình Zoom vào máy để tối nay lúc 8 giờ tối giờ Âu Châu nghe HT Sư Phụ giảng Pháp. Không cần biết Người sẽ cho mưa Pháp kiểu nào? Nghe lệnh là phải có mặt ngay, để chứng tỏ tinh thần Tứ Trọng Ân với Thầy Tổ.
09/01/2021(Xem: 6837)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
06/01/2021(Xem: 2745)
Một mùa Xuân lại trở về, gom những hơi ấm tình người giữa vùng biên giới Việt- Trung, đốm lửa Hồng sưởi ấm trái tim anh trong từng hơi thở. Xín Mần ơi, nơi biên cương Tổ Quốc thân yên, vùng biên giới giữa cái nhìn bao bọc xung quang chín tầng mây, chín tầng ngọn núi bao bọc. Năm 2021, Nhân duyên trở về xã Xín Mần- huyện Xín Mần - tỉnh Hà Giang. Trời lạnh hơn 04h30 sáng ngày 01/01/2021,
05/01/2021(Xem: 10357)
Vì con phải đợi nghe hết giây phút sau cùng của chương trình online ...con ( Phật Tử Huệ Hương ) mới có thể bày tỏ sự hân hoan và pháp lạc giống như Cô Chơn Hạnh Tịnh đã tri ân Ôn và cũng kính xin phép Ôn cho con trình bày những gì con đã thọ nhận từ Ôn qua bài pháp thoại tuyệt vời này . Theo thiển ý của con qua lời pháp nhủ ban đầu với đề tài “ Tu tập làm sao để được an lạc “ Ôn Như Điển muốn truyền tải suối nguồn Đạo Pháp về Tứ Vô Lượng Tâm ( TỪ, BI, HỶ, XẢ ) đến cho những ai muốn đi bước vào con đường Phật Thừa ( không cần biết người đó đang theo Tiểu Thừa , Nguyên Thuỷ hay Đại Thừa..) . Điểm rốt ráo sau cùng phải là Giải Thoát sinh tử và thấy được Ông Phật bên trong của chúng ta ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]