Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh

06/08/201817:13(Xem: 7572)
Phật Giáo và con người đất Bình Đinh


Duong Kinh Thanh 2018 (8)

Hội Thảo Phật Giáo và Văn Hóa Bình Định

 

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh



1-Con người đất Bình Định

Khi  nói đến  con người và văn hóa Bình Định, một cách tổng quan, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra  những khía cạnh nhân văn rất đáng ngưỡng mộ. Trước hết đó là  Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ), trải lòng  trắc ẩn qua những áng văn thơ của một danh sĩ bôn ba đội lốt chăn trâu, chí nam nhi thời loạn, sự thức thời của sứ mạng vua tôi bên cạnh lẻ ứng sử trong  bối cảnh một đất nước tồn vong vì họa ngoại bang.Ông còn là người đầu tiên mang về cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635) bộ môn nghệ thuật Hát Bội (Tuồng) đặc sắc . Là một Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), ông Hậu Tổ của nền nghệ thuật Hát bội  đặc sắc của dân tộc, ông còn là nhà  nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, rất am tường Phật học lẫn Nho học. Rời một Mai Xuân Thưởng  ( 1860 – 1887 ) với mỗi tiếng thơ làm mỗi  tiếng thốt ra tự cõi lòng trước lúc đầu rơi. Một Tăng bạt Hổ ( 1858 – 1906 ) với con đường truân chuyên bôn ba   tứ xứ. Một Nguyễn Bá Huân ưu thời mẩn thế ( 1853 – 1915).Nguyễn Trọng Trì ( 1854 – 1922) chí khí lắng sâu đêm nguyệt tận, một lòng  một dạ với nghĩa quân Cần Vương . Là Đào Phan Duân ( 1864 – 1947) tiết tháo,  bỏ mặc ven đường học vị Phó Bảng đề đánh Tây. Một Hồ Sĩ Tạo ( 1841 – 1907 ) xả thân dưới cờ nghĩa, nằm lại đất này cho thơm tiếng Bình Định  ngàn sau. Hay như  đất  Vân Sơn có năm anh em  nhà họ Nguyễn rất giỏi thơ phú, thi ca, tiếng tốt  vang xa ai cũng đều mến phục.

                            Riêng trong dòng thơ mới, đất Bình Định  còn sản sinh ra những  nhà thơ  tài danh như  một Xuân Diệu ( 1916 – 1985) với  nỗi cô đơn  lai láng trong biển tình nhân thế. Hàn Mặc Từ( 1912 – 1940 ) bó hoa của những miền phiêu linh. Một Chế Lan Viên  ( 1920 – 1989 )với gạch rụng sao rơi  vắt ngang những ánh mắt Chiêm Thành . Còn có một thi nhân Quách Tấn  trang trọng, đài các của ngọn gió Đường Thi phả trên bờ dậu lũy tre, suối ngọt mây thơm quê hương Bình Định. Nơi này còn có tiếng gọi đò chờn vờn trong trăng lạnh của một Yến Lan ( 1916 – 1998 ) trầm mặc bên cạnh  ngọn bút viết kịch  tài hoa.( 1)

                           Đó là chưa  nhắc đần  Bình Định gắn liền với  câu ca dao xưa ca ngợi là một miến đất võ vang lừng khắp đó dây, nhất là  khi  cuộc chiến thắng của anh em nhà Tây Sơn thì môn võ đặc thù đã được thành hình và lan rộng  mọi nơi. Trong đó, trống võ Tây Sơn đã trở thành  một môn nghệ thuật  xuất sắc mà đến bây giờ vẩn còn làm  du khách  say đắm mỗi khi  ghé thăm.


2-Phật Giáo  đất Bình Định

Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được  nhiềuchư thiền Tổ  ghé bước hoằng hóa và  chư  tôn thiền đức bản địa xây dựng  mạnh mạch  Phật đạo  từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên  hình ảnh  Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định  đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi  nhiều kinh điền có  giá trị  để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường  hoằng hóa  của Phật đà luôn mang trong mình sức sống vị tha, nhân ái và hòa  bình, hữu nghị qua từng bước chân  hài cỏ của chư tổ ngàn xưa mà hình ảnh Tổ Nguyên Thiều là một điển hình cao đẹp ấy. Với Hòa Thượng Thích Phước Huệ, vị danh tăng làm rạng danh thêm  cho Phật giáo và vùng đất Bình Định, khi váo các triều vua Thành Thái( 1889 – 1907 ) , Duy Tân ( 1900 – 1945 ) và Khải Định (1885 – 1925) thường mời vào cung thuyết giảng nên được triều đình và sơn môn đồ chúng tôn xưng Quốc Sư.       

Năm 1970, để tưởng niệm và ghi công, Giáo Hội Phật Giáo Việt NamThống Nhất tỉnh Bình Định đã chọn pháp hiệu của hòa Thượng đặt tên cho  Phật học viện  tại tổ đình Thập Tháp: Phật học viện Phước Huệ. “Cái tướng Hữu, Vô trong tâm pháp của Ngài đã thống nhất, giúp cho hạnh nguyện độ thoát quần mê và sự tự tồn dân tộc qua  Duy Tân( Vua), Tâm Minh (Cư sĩ), Mật Thể, Thiện Hoa (tu sĩ).v…v.. trở thành ngọn nguồn bất tận, đến muôn đời sau của Phật giáo Việt Nam” (2).

ht thich bich lien
Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải (1876 – 1950)

                         Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải, người con của đất An Nhơn hiền hậu, Ngài cũng  góp phần làm rạng danh Phật giáo Bình Định nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung  trong quá trình tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo,  phụng sự táp chí Từ Bi Âm thường xuyên, góp phần  gióng lên hồi chuông thức tỉnh cho Phật giáo đồ  khắp chốn. Với văn phong chữ Nôm rất chỉnh,Hòa Thượng   phiên dịch trước tác các tác phẩm giá trị như Liên Tông Thập Niệm Yếu Lãm, Tịnh Độ Huyền Cảnh, Tây Song Ký, Tích Lạc Văn. Đặc biệt hơn các bài sám nghĩa  “ Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi”, hai tác p[hẩm chữ Nôm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hòa Thượng và là các bản sách gối đầu giường cho các thế hệ  mới bước vào nẻo xuất gia. Đó là chưa nói đến  hành trạng và công lao của chư tôn  thạc đức khác của Phật giáo Bình Định, từng vị với nhiều trọng trách khác nhau và điều kiện thời gian khác nhau, góp phần nâng cao vị thế  Phật giáo tỉnh nhà thêm cao trong lòng  dân tộc. Như Hòa Thượng Hưng Pháp ( 1887 – 1075), H.T Tâm Hoàn( 1924 – 1981), H.T Giác Tánh ( 1911 – 1987 ), H.T Thích Đổng Quán ( 1925 – 2009), Ni trưởng TN Diêu Hiền ( 1939 – 2014), H.T Thích thiện Nhơn ( 1931 – 2015), HT Thích Quảng Bửu ( 1944 – 2016), HT Thích Tịnh Nhẫn ( 1948 – 2013), H.T Thích Phước Thành ( 1918 – 2014) v…v…

                      Phật giáo Bình Định  còn sản sinh ra  dòng tán tụng của riêng  mình, so với Phật giáo Huế và Phật giáo Phú Yên, ba vùng đất  có hệ tán tụng  trong nghi lễ Phật giáo của vùng trung trung bộ này, góp phần  không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa, nghệ thuật, phổ cập trong công cưộchoằng hóa theo chiều dài lịch sử của từng vùng  đất Phật giáo hiện diện.Điều này chứng tỏ Phật giáo Bình Định  xứng đáng là một vùng đất vốn là nơi xuất thân của nhiều bậc danh tăng  lỗi lạc.

3- Hát Bội  đất Bình Định

                     Võ truyền thống, văn chương  kiệt  xuất, tất cả  như thấm đượm tinh thần  thưởng thiện phạt ác và Từ bi  Vị Tha của Phật giáo qua hai ngàn năm chia ngọt xẻ bùi và hòa quyện cùng dân tộc. Chỉ riêng bộ môn nghệ thuật Hát Bội thôi cũng đủ chứng minh  Bình Định chính là cái nôi sản sinh cho gia sản văn hóa dân tộc bộ môn đặc sắc này. Ở Bình Định, hầu như vùng nào người dân cũng ghiền và biết ca diễn Hát Bội.Có thời, mỗi xã thậm chí mỗi thôn nào cũng đều có thành lập một đoàn Hát Bội. Song để  có được tính chuyên nghiệp cao để được mời đi hát Tế, hát Thứ Lễ thì  không phải đoàn nào cũng làm được. Thí dụ, ví nằm gần làng Hát Bội Nhơn Hòa, gần học bộ đình Vinh Thạnh của Đào tấn nên người Nhơn Thành, An Nhơn không chỉ mê mà còn rành Hát Bội. Đã có  nhiều gánh Hát Bội thì phải có  bộ phận chuyên dựng rạp , sàn diễn. Vì thế ở vùng Đại Chí, xã Tây An, huyện Tây Sơn xưa có một tốp thợ chuyên phụ trách chuyện dựng rạp đi hát lễ.Đám hát nào họ cũng được mời đến trang trí rạp trước, ví có tay nghề cao và mang tính chuyên nghiệp hẳn hoi (3).

                     Không chỉ là yếu tồ giải trí đơn thuần, người Bình Định nói riêng  và khắp nơi nói chung, ngay từ buổi đầu sơ khai của bộ môn nghệ thuật Hát Bội đã mang lại,  người ta yêu thích bởi  nội dung chứa đựng đạo đức, nhân văn của  Hát Bội rất dầy đặc. Vì thế các vở diễn thường có kết cục có hậu  dù rằng ai cũng có thể biết trước . Điều rất thú vị là ở chỗ đó của Hát Bội. Điều này cũng ví như từng gương mặt hóa trang, điệu bộ, vũ đạo, khi diễn viên vừa bước  ra sân khấu  người xem nhận ra ngay hành tung của nhân vật đó ngay. Chính yếu tố đạo đức, nhân văn cao của hát Bội mà ông bà ta xưa đã  xây dựng  lối nghệ thuật ước lệ thông minh, không rườm rà hình thức tranh dành với  giả hợp  chung quanh, để người xem tập trung vào nhân vật, vào nội dung vở diễn.

                     Như đã nói, Phật giáo là một trong những  nguyên tố quan trọng , góp phần hình thành nên nếp sống, lối sống của người  và văn hóa đất Bình Định. Nghệ thuật hát Bội  cũng nằm trong nếp sống văn hóa ấy. Khổng Tử đã nói “Thẩm âm tri chính “ – Qua âm nhạc , nghệ thuật, để muốn biết giá trị tinh thần văn hóa nơi đó ra sao. Còn văn hào Pháp Victor Hugo ( 1802 – 1885 ) thí chinh trị hóa hơn khi cho rằng “ Một dân tộc nô lệ, nghệ thuật làm cho nó tự do; một dân tộc tự do, nghệ thuật làm cho nó vĩ đại”. Vì thế chúng ta từng chủ trương ra và sức bảo tồn giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc  chính là gìn giữ ý nghĩa  to lớn này.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (5)Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (4)

                   

Một thí dụ điển hình về giá trị tinh thần Phật giáo, con người và văn hóa đất Bình Định qua nghệ thuật Hát Bội. Đó là cụ Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), một người con  đất Bình Định ( người làng Vĩnh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước), một người rất am tường Phật học lẫn Nho học. Cụ là người có công lao rất lớn khi có một cuộc chỉnh biên các vở tuồng Hát Bội trong phường bản – tức các vở  đã có  trước  lưu hành trong dân gian. Và khi chỉnh biên xong đã trở thành  các vở của kinh bản, dưới triều vua Minh mạng ( 1791 – 1841 ). Vở hát Bội tiêu biểu nhất  mà cụ dày công chăm chút  là vở San Hậu. Một trong những vở Hát Bội hoàn toàn của  đất nước  và con người An Nam chúng ta, không phải của Trung Hoa, dù nội dung  có giã định  từ ngữ “Nhà Tề “ và “Nhà Tạ”.Theo các nhà nghiên cứu , chính cụ Đào Tấn đã chỉnh sửa và viết lại toàn bộ hồi thứ III của vở San Hậu, Nơi  mà có rất nhiều  tình huống nhân vật kịch chạm rất sâu vào  tư tưởng Phật giáo. Trước hết  về “thứ tự cấp bậc”( xin phép được nói vui) trong nhà Phật. Khi bà Nguyệt Hạo Tam Cung ( Tạ Nguyệt Kiểu ) vì buồn  chán ba đứa em dòng họ Tạ nhà mình, bỏ  vào tây Sơn Tự  xuất gia, nơi đó hiện có bọn xấu ( Giả Ngu) mạo danh tu hành chiếm ngụ, bày sẵn kế mưu để hảm hại bà, nhưng Hộ Pháp “ra lệnh “ cho Thành Hoàng : “Phụng mệnh Như Lai khiến / Nào dương cảnh Thành Hoàng (nghe ta dặn) Nay có bàNguyệt Hạo nương/ Thìn lòng nhân đức. có dạ tu trì/ Vã đây gần sơn tự ác tăng/ khá bảo hộ người lành kẻo hại.”Thành Hoảng đáp : “Thừa kim Thần sắc hạ/ Quản chúng tới hộ tòng/ Phòng khi chúng nó hành hung / Thời đã có ta bảo hộ”. Xuất hiện trong vở chỉ có  mấy câu đới đáp đó chỉ bằng âm thanh hậu trường, thay vì cho Quan Âm Bồ Tát  ra tay thậm chí Như Lai Phật Tổ  giáng phép , bấy nhiêu đó cũng đủ chứng minh ngòi bút của Đào Tấn   hiều biết Phật học ở cấp độ nào. Đả có nhiều  ý kiến khẳng định  Nội dung Hát Bội  hầu hết đều đề cao Nho gia, ca ngợi khí tiết quân chủ “Quân xử thần tử, Thần bất tử bất trung, bất hiếu”. Do đó con có thể chống lại  cha mẹ hay ngược lại, anh em , thân bằng quyến thuộc có thể trở thành cừu nhơn chỉ vỉ để bảo vệ nề nếp của đạo quân thần tử  theo kiều ấy. Và như thế  người ta so sánh vai trò Phật giáo trong các vở Hát Bội thường bị lu mờ, thậm chí trái ngược với chủ đề   nền tảng Nho gia. Thật ra  sự xuất hiện   của Phật giáo trong nội dung  Hát Bội thường nằm  ở góc độ tiềm ẩn và bàng bạc  trong các nội dung là  triết lý Nhân- Quả  khá rỏ nét. Có thể gọi đó là cái NHU so với cái CƯƠNG của Nho gia trong Hát Bội. Trong vở hát Bội San Hậu  thì những điều đề cao Nho gia đều bị hụt hẩng bởi cái NHU của Phật giáo thắng thế. Quả thật cụ Đào Tấn  luôn muốn đề cao  triết lý  Từ Bi, Nhân – Quả  của Phật giáo rõ nét hơn, phủ trùm lên nhiều nhân vật. Khi bọn Giã Ngu bị  Thành Hoàng Thổ địa vặn họng bẻ tay thì kịp lúc Đổng Kim Lân và Phàn Diệm cũng tới nơi và nói “Tới đây vì có Thần linh/ Cứu đặng cũng nhờ ơn Phật”. Và triết lý Từ Bi Nhân-Quả của Phật giáo trong vở được  cụ Đào Tấn đầy lên  đỉnh điểm ở phần cuối vở San Hậu. Đó là  cảnh trước  Phật đài   hương khói uy nghiêm của Tây Sơn Tự Bà Tam Cung Nguyệt Hạo – hiện cũng là  một vị Ni giới xuất gia, cho năm anh em dòng họ Tạ ( hiện đang  còn sống sót có hai Tạ Thiên Lăng và Tạ Lôi Vân), đang quỳ phủ phục, thấy rõ cái Quả mà họ đã tạo ra trước đây mà mình đã từng khuyên ca nhưng  không được.Với cái NHÂN lành của bà  Nguyệt Hạo  trước đây, từng ra tay cứu  giúp mẹ con thứ phi Phượng Cơ và ấu chúa, nay vua đã được  6 tuổi, bà van xin tha mạng cho hai đứa em tội nghiệp do nghiệp chướng sâu dầy. Hoàng tử vội đỡ  bà đứng lên và kính thưa lễ phép “Thưa Á Mẫu! Chi hai mạng chẵng dung/  Ước còn năm cũng thứ “. Thông thường đạo vua tôi Quân- Thần- Tử, công và tội phân minh. Xử chém trước rồi nói chuyện  ơn nghĩa sau. Ở đây lại khác,  Cụ Đào Tấn  nhấn mạnh đức hiếu sinh và lòng từ đại lượng của Phật giáo bao giờ, lúc nào, ở đâu cũng nằm trên thế  thượng võ, đáng được  đề cao.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (3)

Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (1)
Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (2)

Tác giả Dương Kinh Thành
Bên Bảo Tháp Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang (xem tiểu sử)




Tưởng cũng cần nói thêm  rằng trong nghệ thuật Hát Bội có nhiều thể loại để phân định qua cách gọi Tuồng Đồ , Tuồng Pho, Tuồng Truyện, Tuồng Hài, Tuồng Dân Gian v…v..Như vậy vở San Hậu thuộc  thể loại  Tuồng Đồ, tức phóng tác hay dựa theo, không có trong sử sách. Tuồng Pho là thể lọai  biểu diễn dài hơi, kéo dàinhiều đêm mới hết vở diễn. Tuồng Truyện phần lớn thuộc  truyện của Trung Hoa như  Tam Quốc Chí, Tiết Nhơn Quý.v…v…Tuồng Hài như “Ông Trượng Tiên Bửu, Ông Địa và Nàng Tiên, Trương Ngáo Đòi Nợ Phật, Trương Đồ Nhục v…v…Tuồng Dân Gian như Ăn Khế Trả Vàng, Quan Âm Thị Kính. Quả Báo Nhãn Tiền v…v…Qua đó, chúng ta  thấy rõ không phải vở diễn Hát Bội nào cũng  thuộc  lịch sử, câu chuyện của Trung Hoa. Ngay cả cách hóa trang, điệu hát hoàn toàn  không giống bất kỳ một chi tiết nào của  thể loại Kinh Kịch  của xứ người. Có thể, còn chút vương vấn  bị cho là “lai Tàu” hoặc qua  các bộ giáp trụ của diễn viên Hát Bội chúng ta ? Nhưng điều đó cũng không cáo gì sai trài một khi tinh túy và hình thức của Hát Bội đã hoàn toàn  thuộc về bản sắc người An Nam từ lâu. Ngay như  Hát Bội Bình Định  ( đại diện cho cả khu vực  miền trung) và Hát Bội miền Nam cũng đã rất  khác nhiểu mặt, dù nội dung các vỡ diễn vẫn trung thành, thống nhất như nhau. Tưởng  cũng chẳng thứa khi chúng ta  biết thêm một thí dụ nữa là  về vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại (  miền Nam gọi thân mật là Thầy Ba Đợi), vốn là một nhạc quan triều đình nhà Nguyễn, chạy tránh loạn vào nam sáng tác các bài bản được cho là  các bản Tổ củaNhạc Lễ và  nhạc tài tử Nam Bộ, dựa vào  tiêu chuẩn của hệ thống  nhạc cung đình Huế  và ca Huế trong dân gian. Vì thế tuy nghe tựa đền  bài  hát  không khác với Ca Huế  hay nhạc cung đình như Lưu Thủy, Cổ bản Kiêm Tiền, Phú Lục, trong hệ thống “Ba Nam, sáu Bắc, Bảy bài”, hay “Tám bản Ngự’.v..v…nhưng khi nghe thì khác xa nhau hoàn toàn.( Long vị của ông Ba Đợi thờ tại  đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ huyện Cần Đước tỉnh long An: “Phụng sự quá vãng Nguyễn Quang Đại nhứt vị chi linh- Hoàng triều nhạc sư- Nam Bộ đại nhạc tông” ).

4- Tổng Luận

 Như vậy, con người và văn hóa đất Bình Định, trong đó có  tinh thần chân lý như thị của Phật giáo đóng góp rất lớn, đem nhiều lợi lạc cho cuộc sống hôm nay và cả đến mai sau. Có những  con người, những vấn đề vì  nhiều nguyên do khách quan nào đấy , còn đang chờ đợi nhân duyên tác hợp để củng cố và tăng cường cho sức mạnh  Phật giáo cũng như con người   Bình Định. Ai trong chúng ta cũng đều có  chung một niềm tin như thế vì đó là một niềm tin chánh đáng , và trên hết  bằng tinh thần yêu  truyền thống dân tộc thiết tha, , nhất định  một tương lai tươi sáng sẽ sẵn chờ đón  phía trước.

 

Kính chúc Hội Thảo thành công tốt đẹp.

 

Sài gòn , tháng 6/ 2018

Dương Kinh Thành

( Trung tâm Nghiên Cứu  Phật Giáo Việt Nam)

 

 

 

 

Các chú thích:

1)      Trích văn Hóa và con người Bình Định.

2)      Trích Danh Tăng Việt Nam-NXB Tôn Giáo 2017-Đồng Bổn chủ biên.

-          Lược Khào Phật Giáo Sử VN- Vân Thanh- VHĐ ấn hành 1974.

-          Lịch sử Phật giáo Đàng trong- Nguyễn Hiền Đức- Tập I-NXB thành Phố 1996

3)      Theo Hát Bội Bình Định-Văn Hoc Nghệ Thuật-vanchuongviet.org.

Và các  bài viết chuyên đề Nghệ thuật sân khấu Phật giáo của  tác giả đăng trong các tạp chí và Tập Văn BVNTW/GHPGVN số 41/ NXB TP.HCM 1998.

______

* Bài liên quan:

 

Hàn Mặc Tử và Thơ Phật Giáo (Cư Sĩ Trí Bửu)

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh (Cư Sĩ Dương Kinh Thành)

  Sự Đóng Góp của Chư Tăng Bình Bịnh .... (TT TS Thích Hạnh Bình)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2015(Xem: 3375)
Em có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho em. Lá thư của Chị đã gây cho em nhiều bâng khuâng xúc động và ngậm ngùi vô cùng vì đó là những nét chữ kỷ niệm của Chị còn lưu lại trên cõi đời này! Đúng vậy, Chị đã ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả những ưu tư phiền muộn của cuộc đời và em đang đọc những dòng chữ của Chị đây.
12/02/2015(Xem: 17012)
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
05/02/2015(Xem: 13624)
Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
04/02/2015(Xem: 30187)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
02/02/2015(Xem: 11871)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
25/01/2015(Xem: 5636)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
25/01/2015(Xem: 5713)
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
22/01/2015(Xem: 5854)
Ai sống ở đời cũng phải dẫm lên những buồn vui mà đi về phía trước. Có một ngày tôi chợt phát hiện ra mình có những chuyện ngậm ngùi, có thể từng khiến nhiều người thấy buồn, nhưng tôi nhớ hình như chưa nghe ai nhắc tới. Bỗng muốn kể chơi vài chuyện buồn trong số đó cho vui! Tôi chỉ mới về Tàu hai lần trong mười năm xa xứ. Tôi từng đứng một mình trên bến Thượng Hải để ngắm nhìn con sông Hoàng Phố trong đêm, đêm ở đó thường nhiều gió lạnh. Tôi từng một mình thả bộ trong phố đêm Lệ Giang cho đến lúc quán xá bắt đầu đóng cửa. Nhiều và khá nhiều những nơi chốn đây kia trên xứ Tàu đã hút hồn tôi, đến mức đã rời đi cả tháng trời sau đó còn cứ thấy nhớ như điên.
10/01/2015(Xem: 16879)
Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ. Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa. Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai! Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.
05/01/2015(Xem: 3278)
Chiều nay từ cơ quan về nhà, Lâm chở theo một cô gái: Cô Thắm. Ngọc, vợ chàng, không mấy ngạc nhiên vì Lâm đã trình bày với nàng từ hôm qua. Thắm 17 tuổi, cán bộ văn nghệ cơ quan Xây Dựng Nông Thôn mà Lâm là Chỉ Huy Trưởng. Ăn cơm xong đâu vào đó, theo kế hoạch, vợ chồng Lâm kéo về nhà ông bà Kính, thân sinh của Ngọc, chỉ cách đó 10 phút đi bộ. Ông bà Kính cũng không mấy ngạc nhiên về sự hiện diện của Thắm tối nay, vì ông bà cũng được Lâm thưa trước về vấn đề của Thắm. Bà Kính mời Thắm ngồi. Rồi với vẻ thân thiện cởi mở cố hữu, bà vui vẻ bảo Thắm: - Thời buổi này trai thiếu gái thừa, khó dễ người ta làm gì thế? Thắm tưng tửng, giương cặp mắt ngây ngô thật thà đáp lại: - Cũng một vừa hưa phửa thôi chớ!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]