Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuệ Sĩ – Người Gầy Trên Quê Hương

07/01/201707:20(Xem: 5535)
Tuệ Sĩ – Người Gầy Trên Quê Hương

HT Tue Sy
Tuệ Sĩ – Người Gầy Trên Quê Hương

 

Tuệ Sĩ – Người gầy trên quê hương điêu tàn. Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng. Những hình dung từ tiêu biểu cho một con người như còn lãng vãng đâu đó, náu mình trong khói đá. Ẩn hiện trên khói sóng. Nhấp nhô trên những lượng nước bạc đầu của đại dương. Hiển hiện trên quê hương điêu tàn. Núp sâu trong lòng người khốn khó. Ngày cũng như đêm luôn có ở những nơi đó. Có như một linh hồn mục nát, đọa đày giữa muôn triệu linh hồn đau thương, gầy guộc. Luôn kêu gào thấu trời xanh, nhưng những kẻ quyền uy tham vọng ở nơi đó vẫn bịt tai, nhắm mắt như loài khỉ nhảy nhót trên cành cây vô lương tri. Như bầy thú hoang dẫm nát núi rừng nơi chúng ở.

Một vì sao sáng ở phương đông để dẫn lối cho các vì sao lạc hướng. Cả bầu trời đen ngòm, thăm thẳm u minh, bao trùm muôn vật, gục đầu trong tuyệt vọng.

“Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước,

Cố quên mình là thân phận thần tiên”

(Giấc Mơ Trường Sơn 57- An Tiêm 2002)

Đúng! Tuệ Sĩ người đã lạc bước, nên bốn mươi năm qua đã phải sống với cỏ cây, sương mù, vạt nắng… với rừng xanh, cốc lặng thâm u, để nuôi dưỡng một thân người gầy còm như Khô Mộc Thiền Sư, trên đỉnh Trường Sơn gió hú. Lạc bước để ru đời mình qua cơn mộng kinh hoàng của quê hương. Qua nỗi đọa đày, lầm than của dân tộc. Vì lạc bước vào một thảm cảnh điêu tàn đã làm xốc dậy nỗi đau chung của loài người. Nỗi oán hờn của cỏ cây, sỏi đá, của kiếp người cuốn theo bụi mờ của thời gian tăm tối.


Mang thân phận người mà chia sẻ những cảm nghĩ, suy tư chẳng ai thấu hiểu, nhìn nhận, vì đã bị lạc điệu. Con người ở nơi đó đã choáng ngợp ánh đèn tham vọng. Con đường tham nhũng để dẫn tới cảnh bán nước cầu vinh. Nhóm người vong thân, lạc hướng của thời đại điêu tàn hoang dã của thời tiền sử. Vì lạc bước nên không cùng chung ý thức sống. Ý thức của ý thức. Người thật người. Người của lương tri. Người của người. Người của tất cả, cỏ dại mây ngàn, biển xanh, núi thẳm… Vì lạc bước nên ở đó cảm thấy mình cô độc giữa xã hội người mà chẳng ai cảm thông, chia sẻ, nỗi niềm, ước vọng để đồng hành trên con đường phụng sự tha nhân, làm lợi đạo ích đời. Khi mình còn hiện hữu. Có tâm lý nào của loài người khi có được viên ngọc quý trong tay mà quăng nó vào xó nhà, vứt nó vào xọt rác. Tâm lý này có thể có ở những kẻ sống xa thế giới người, không biết cái quý của viên ngọc. Hay đúng hơn như loài vượn, loài khỉ. Cho nó ăn chuối, cầm lấy ăn liền, nhưng đưa nó viên ngọc, nó nhìn qua nhìn lại rồi ném đi chẳng hối tiếc. Vượn khỉ chẳng suy tư nghĩ ngợi gì giá trị hiếm có của viên ngọc, nên dưới mắt của vượn khỉ viên ngọc không quý bằng trái chuối.

Trong mọi thời gian, dù rằng xa xưa ở quá khứ, loài người mới xây dựng một đời sống xã hội thấp, lao tác bằng tay chân, ít sử dụng việc làm bằng đầu óc. Nhưng những ai có được cái đầu, cho những dòng tư tưởng tuôn chảy, cho tri thức hiện hữu qua sự sinh hoạt thường nhật, thì người có cái đầu vẫn hơn, vẫn được trọng dụng để khai phá, phát triển những việc cần khai phá, cần phát triển. Có được như vậy, thì loài người mới tiến bộ thăng hoa đời sống thánh thiện, nâng cao trình độ tri thức xã hội. Bằng không xã hội người đó sẽ không bắt kịp với những nền văn minh tiến bộ khác.

Đã lỡ lạc bước rồi, thôi thì hãy cố quên mình là thân phận thần tiên đi, mà phải vào rừng ăn trái cây, uống nước suối, cùng lũ khỉ vượn chuyền cành cho qua ngày tháng, theo dòng thời gian:

“Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn,

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.”

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm 2002)

Có người ngược xuôi để tìm cầu, tranh giành quyền uy tước cả, dù có đi bằng cái đầu xuống dưới đất, họ vẫn làm để được những tham vọng bất lương, những tiền bạc bất nghĩa, quyền cao lộc cả dù phải bán nước cho ngoại bang, những mong tiền bạc đầy túi, vàng ngọc đầy nhà, để lót, để nạm bàn ghế ngồi chơi hưởng thụ trên xương máu của dân đen. Nhưng nơi đây có người “ngược xuôi” mà chỉ có để “nhớ nửa cung đàn” chưa được trọn “cung đàn”. Đơn giản quá! Tri túc quá! Biết đủ như là một thân người có chiều cao 1.59 m và cân nặng 39.5 kg. Có mấy ai được cái ngược xuôi đó? Hay chỉ có kẻ đứng ngoài vòng danh lợi, ngoài cái thị phi, nhân ngã, tầm thường của thế nhân.

Nửa cung đàn ấy như là tiếng ngân dài của cung đàn rồi chợt dứt. Như dòng lịch sử của quê hương dân tộc rớt tỏm xuống hố sâu, tối tăm, mịt mờ, tuyệt vọng qua chặng đường lịch sử hôm nay.

 

HT Tue Sy 3

Đời sống như là quán trọ, con người đến rồi đi. Sanh rồi tử, muôn trùng, thăm thẳm, vô biên, vô tận. Con người đắm chìm trong cái quán trọ đó mà sinh ra đủ thứ chuyện để làm ngăn nẻo về của những bước chân phương trời viễn mộng. Vậy thì, bị ngăn nẻo về, không về được nên quay lại để sống với mình. Đóng cửa phòng, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhịn đói, tuyệt thực. Ngày chỉ uống nước chanh pha đường. Có lúc xỉu trên bàn vì đói. Còn lở dở mấy câu thơ:

“Ta cưỡi kiến đi tìm tiên động

Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ

Cóc và nhái lang thang tìm sống

Trong hang sâu con rắn nằm mơ”.

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm, tr. 68, 2002)

Bị ngăn nẻo về nên cưỡi kiến đi tìm tiên động, để tu tiên thành tiên ông. Sống nơi cõi trường sinh bất tử đó, mà vui với bướm ong, cóc nhái, rắn rít trong hang sâu nằm mơ phương trời mộng. Sống thực không được thì sống mộng mơ. Sống cho chính mình. Sống cho qua một giấc chiêm bao tưởng chừng như đã:

“Đêm qua chiêm bao ta thấy máu

Từ sông ngân đổ xuống cõi người

Bà mẹ xoi tim con thành lỗ

Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời”

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm, tr. 67, 2002)

Có bà mẹ nào xoi tim con thành lỗ để móc bên trong hạt ngọc sáng ngời? Chỉ có bà mẹ điên thời đại mới làm như vậy. Bà mẹ điên ấy chỉ biết vàng và ngọc mà không có tình yêu thiêng liêng sinh con và thương con. Bà mẹ điên thời đại đã đẩy đàn con mình lang thang bươi rác rưởi để sinh nhai. Tìm sống trên những vỉa hè cùng khốn. Thất học, mù chữ, đói nghèo… Còn bà mẹ thì ngất ngưỡng hưởng thụ ngọc ngà, vòng bạc từ máu của người dân, mà qua đêm chiêm bao “ta thấy máu”. Máu nhuộm đỏ con người. Máu tuôn chảy như sông. Máu lan tràn cả nước. Rồi có những đêm ngồi bên cửa sổ, ngắm ngọn nến tàn qua khung cửa sổ để sống mộng, sống mơ y như sống thực.

“Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc

Một lần đi là vĩnh viễn con tàu.”

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm, tr. 12, 2002)

Đi đâu bây giờ, vì ai đó đã ngăn nẻo về thì có lối đâu mà về. Có đường đâu mà đi và có quán trọ nào để tới. Nẻo về không. Quán trọ cũng không. Chỉ chôn mình bên chồng sách cũ với bốn vách tường rong rêu mà gõ nhịp. Vì sống mộng nên tránh xa cõi người, vào hang động núi rừng để cuốc đất sinh nhai. Trồng bí bầu, khoai lang, mướp đắng, rau quả, tía tô, xà lách… để đêm đêm nằm nghe tiếng dế nỉ non, côn trùng hát ca bài ca dân tộc.

“Người đi đâu bóng hình mòn mỏi

Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ

Đường lịch sử

Bốn nghìn năm dợn sóng

Để người đi không hẹn bến bờ.”

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm, tr. 85, 2002)

 

Sống với người bị ngăn nẻo về. Sống thực đã thành mộng và sống mộng để thấy hiện thực, một sự sống vì đời mà tranh đua. Tranh đua, giành giật cả ngày lẫn đêm trên mặt đất hay dưới lòng đất lắng nghe từ sự tan vỡ hãi hùng, giết chết sự sống của sức người lao tác.

“Ta biết mi bọ rùa

Gặm nhắm tàn dãy bí

Ta vì đời ghanh đua

Khổ nhọc mòn tâm trí.

 

Ta biết mi là dế

Cắn đứt chân lá non

Ta vì đời nô lệ

Nên phong kín nỗi hờn

 

Ta biết mi là giun

Chui dưới lòng đất thẳm

Ta vì đời thiệt hơn

Đêm nằm mơ tóc trắng”

(Giấc Mơ Trường Sơn - An Tiêm, tr. 31, 2002)

Nổi trôi theo năm tháng, thân hình gầy còm như cọng lau, giữa rừng núi Bảo Lộc, trong đêm trường u tịch, có lúc chẳng thèm thở nữa, nằm giữa núi rừng, dân làng mang về tiếp hơi để thở. Đây là mộng hay thực, là đời sống văn minh thế giới loài người hay đời sống của loài dã thú nơi chốn núi sâu, rừng hiểm?

Có ai một lần nghĩ tới “Tiên ông” để thấy viên ngọc quý của giống nòi nước non, mà thắp nén hương lòng khấn nguyện, giữ gìn nghìn năm sau không hề phai. Núi rừng Bảo Lộc như cúi đầu thầm lặng để lắng nghe “Tiên ông” cưỡi kiến đi cùng khắp nẻo vô sinh. Lão tử cưỡi trâu thành bất tử. “Tiên ông” cưỡi kiến để cùng sinh tử với chúng sinh.

 

San Diego, Mạnh Đông, 05 tháng 01 năm 2017

Nguyên Siêu

 



Thich_Tue_Sy_2007
MỘT VÌ SAO SÁNG


  Kính cảm ơn bài viết : Tuệ Sĩ Người gầy guộc trên quê hương của HT Thích Nguyên Siêu .

Một vì sao sáng khắp trời
Một người gầy guộc giữa đời đảo điên
Một mình một cõi lặng yên
Rong chơi ngày tháng khắp miền rừng sâu

Trải qua năm tháng dải dầu
Nhìn xem thế sự biển dâu mỉm cười
Ta cười thương cảm lòng người
Qua bao sanh tử đổi dời chuyển quay

Cuộc đời biến chuyển từng giây
Nói sao cho hết những giây phút nầy
Thôi ta im lặng như vầy
Cơm rau muối ớt thế nầy cũng vui .

                    Tánh Thiện
                    12-1-2017


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2014(Xem: 18595)
Trên chuyến bay từ Paris đến Reykjavik, thủ đô Iceland, tôi không khỏi mỉm cười khi thấy trên màn hình giới thiệu du lịch có những từ “mindfulness” (chánh niệm), “meditation” (thiền), “here and now” (bây giờ và ở đây). Hôm trước cũng nghe một thiền sinh ở Làng Mai (LM) chia sẻ rằng cô thích thú khi nghe một nữ tiếp viên hàng không nói với khách: “Please have mindfulness to bring your luggage down…” (xin chánh niệm khi đưa hành lý xuống…). Thiền tập đã đi vào đời sống người châu Âu đến vậy, có phần ảnh hưởng khá lớn của LM.
16/11/2014(Xem: 4321)
Vẫn biết rằng ai sinh ra cũng có một quê hương để yêu dấu, để gắn bó, để tưởng nhớ khi chia xa. Tuy nhiên tôi luôn luôn có cảm nghĩ là người Huế sống và bộc lộ tình quê hương mãnh liệt hơn bất cứ người dân vùng nào khác chăng?
03/11/2014(Xem: 53453)
Theo truyền thống Tăng Già, hằng năm chư Tăng Ni đều tụ về nhóm họp một nơi kiết giới an cư, hầu thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định, Tuệ là ba môn vô lậu học, tăng trưởng đạo lực sau những tháng ngày bận rộn hoằng pháp lợi sanh. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi –Tân Tây Lan được thành lập năm 1999, mỗi năm đều qui tụ tại một trú xứ được chọn trước để an cư tu tập trong mười ngày. Năm nay Đạo tràng Tu Viện Quảng Đức chúng con được Hội Đồng Điều Hành và Tổng Vụ Tăng Sự giao phó trách nhiệm tổ chức Mùa An Cư lần thứ 15 của Giáo Hội. Đạo Tràng chúng con đã thỉnh ý Chư Tôn Giáo Phẩm trong Giáo Hội và quý Ngài đã đồng thuận tổ chức kỳ An Cư Kiết Đông năm nay tại Tu Viện Quảng Đức theo ngày giờ như sau:
02/11/2014(Xem: 3964)
Thời gian trôi xa nay đã hơn 7 mùa trăng thu lồng lộng duới bao lớp huyền suơng nơi xứ nguời (từ năm 2006-2014) Tuy nhiên, nhìn lại chỉ còn là một thoáng như bóng mây qua cửa, như dòng nuớc có khi thanh thản, có lúc nặng nề vẩn đục lặng lẽ trôi và trôi xa.
01/11/2014(Xem: 19297)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơn nữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạo pháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau nhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúng nói lên rất ít ỏi, nhưng không vì thế mà chúng không mang lại cho chúng ta một cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về cuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấy rõ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyện kiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”
30/10/2014(Xem: 3527)
Suốt bao năm dài lưu vong nơi xứ người, tôi đã trăn trở, khắc khoải nhớ thương Huế - nơi tôi đã sống những ngày bình yên và thanh thản với tất cả tấm lòng ngây thơ của người con gái mới lớn. Hình ảnh Huế đẹp và thơ đã hiện về thường xuyên như một nhắc nhở trong tâm tưởng, trí nhớ, giấc ngủ và cơn mơ của đời tôi ! Huế mãi mãi vẫn là một vùng thánh địa thiêng liêng, bất khả xâm phạm trong góc sâu thăm thẳm của trái tim tôi. Kỷ niệm về tuổi trẻ vô tư, người tình đầu đời, bạn bè thân ái, những chốn hẹn hò rong chơi, ngôi nhà cũ, mái trường hồng vôi tím, những con đường đầy bóng mát từng chứng kiến cảnh gặp gỡ đầy yêu thương.
27/10/2014(Xem: 15308)
Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Song Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc). Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:
09/10/2014(Xem: 13779)
Nói thiệt, tôi chẳng biết ông Lê Hựu Hà nghĩ gì khi viết bảy chữ này. Nhưng tôi đã xem đó như một đề nghị rất Phật giáo. Tôi chưa hề là một thiền sinh nghiêm túc, nói gì là thiền sư. Tôi chỉ là kẻ lãng du trong cõi Phật pháp và thỉnh thoảng ghé chơi dăm khu vườn văn nghệ như một cách nghỉ chân. Và chính bảy chữ đó của người nhạc sĩ họ Lê từ lâu đã là một khẩu quyết cho tôi những khi nghe, đọc, ngắm nhìn cái gì đó tình cờ bắt gặp. Chẳng hạn tôi đã yêu ca dao Việt Nam từ những lời rất lạ.
06/10/2014(Xem: 16522)
Thông thường, trong một tác phẩm văn học nghệ thuật, lời Tựa mở đầu bao giờ cũng được tác giả tự bộc bạch, thổ lộ, diễn bày rất cẩn trọng dài dòng, để người đọc dễ lãnh hội sâu vào nội dung tác phẩm đó, nhưng với Triều Nguyên thì lại hoàn toàn khác hẳn, khi viết Tựa cho tập thơ đầu tay Bay Đi Hạt Cát của mình, thi sĩ chỉ có một câu duy nhất, thật vô cùng giản dị : “Sa mạc buồn thương hạt cát bay đi…” Giản dị đơn sơ mà độc đáo, thể hiện một cốt cách đặc thù riêng biệt trên con đường sáng tạo, ngao du qua những phương trời ngôn ngữ thi ca quá mộng dập dìu.
01/10/2014(Xem: 9374)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi. Trời dìu dịu, không có nắng chói chang. Gió se lạnh, lùa qua hàng cây bên đường. Tâm và cảnh dường như có sự giao cảm tương ứng nào đó, gợi lên một nỗi buồn man man, vời vợi. Đẹp, mùa thu thật đẹp. Phân tích chi ly thì cũng khó mà nói được vẻ đẹp của mùa thu nằm ở đâu. Không lẽ chỉ vì lá vàng, lá cam, lá đỏ? Thế thì ở đô thị nhà cửa san sát, xe cộ nườm nượp, lề đường thiếu bóng cây, thì có lá vàng đâu mà mơ mộng, hân thưởng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]