Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chim hót bên khung cửa sổ

27/09/201622:52(Xem: 7480)
Chim hót bên khung cửa sổ

chim hot

CHIM HÓT BÊN KHUNG CỬA

     Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui  vui.

     Những chú chim sẽ, chim bồ câu đang đứng trên cổng gỗ chờ cho ăn, thấy có người ra là chúng sà xuống, chúng nó đến thật đúng giờ, khoảng 6:40 sáng chưa thấy ai cho ăn là chúng kêu như đòi mẹ cho bú vậy. Chỉ cần một vốc gạo phà ra là những chú chim bay tới, vui mừng khôn xiết, nhưng có một điều làm mình có lúc hơi bực mình, chú ăn rồi chú ỉ đầy trắng cả cửa, gặp trời mưa xuống thì mùi hôi thâm thẩm, khó chịu.

     Toàn là dân lang thang nên vô cùng dễ nuôi, đi đâu thấy cơm nguội hay gạo cũ người ta cho đều đem về, lần đầu tiên cho ăn gạo lức màu nâu những chú chim không dám ăn, đứng nhìn hồi lâu, suy nghĩ một chặp, nó bay tới tha thử một hột, cẩn thận cắn thử rồi mếm, rồi nhã ra. Bay tới bay lui như đang suy nghĩ có nên ăn hay không, một con bay tới tha gạo đi, con khác cũng vậy, chúng nó nhìn nhau, nói gì mình không hiểu nhưng cũng có thể nghĩ rằng chúng đã nói: “An toàn cứ ăn đi.” Sau một hồi chúng đã lượm sạch, rồi nhảy nhót chờ đợi xin thêm. Ở xóm này thật yên tĩnh, nghe chim kêu mở mắt là trời đã sáng, không để cho mình được yên các chú đòi ăn, để còn cùng nhau bay đi khắp nơi đem tiếng hót ca làm đẹp cuộc đời.

       Cũng có khi phải đi xa, thương chúng lắm, đã để thức ăn lại thật nhiều, nhưng khi trở về lương thực đã hết, những chú chim đã ra đi, tìm về một vùng đất mới khác. Cứ mỗi buổi sáng thức dậy không còn nghe tiếng chim hót, cảm thấy như đang thiếu thốn một điều gì vô cùng quan trọng trong cuộc sống đời thường. Bâng khuâng, ngẩn ngơ… thiếu tíếng chim hót bên cửa sổ vào mỗi sáng mai, có một nỗi buồn  trong tâm thức đang len lén hiện khởi. Không biết chúng ở đâu mà tìm, nhưng hình như có sự giao cảm giữa người và chim, khoảng ba ngày sau chúng lại trở về vui mừng nhảy nhót, đòi ăn khi mặt trời vừa ló dạng. Có những chú mạnh dạn hơn bay vào trong phòng, nhưng đưa tay ra là chú vội bay đi, để cho biết rằng nghiệp sát của mình còn quá nặng, chúng sanh không thể tự tại gần gũi được.

     Thời Đức Phật còn tại thế Ngài sống trong rừng cùng với chim muôn, khỉ vượn đều hái trái dâng Ngài độ nhật, những chú nai ngây thơ cho đến sư tử, voi hung dữ, tất cả đều an lành khi sống cạnh Đức Cồ Đàm. Lúc còn nhỏ những lần nghĩ đến Đức Phật lòng dâng lên một tình thương vô hạn, nghĩ rằng Ngài là một vị Đông cung thái tử sống trong cung vàng điện ngọc, trong nệm ấm chăn êm, bây giờ là một vị khất sĩ rày đây mai đó, sống đời du mục sống trong rừng sâu các thú dữ sẽ hại Ngài, muỗi mòng sâu bọ sẽ dốt Ngài. Khi lớn lên đọc kinh điển mới hiểu ra rằng, lòng từ bi của đức Phật đã bao trùm cảm hóa lòng hung dữ của tất cả chúng sanh, dù là một con người cực ác như Ương Quật Ma La, như Đề Bà Đạt Đa tìm nhiều cơ hội để hại Phật, như con voi say rượu, như kỹ nữ độn bụng lớn để vu oan cho Phật… nhưng đứng trước oai đức vô lượng từ bi, trí tuệ của Ngài tất cả đều bị khuất phục, mặc dù trong tay Đức Phật không hề có một vũ khí cho dù rất thô sơ. Lại nữa Kinh kể rằng có một chú chim bay tới đậu trên tay Ngài Xá lợi Phất thì run rẩy, khi bay qua đậu trên vai Đức Phật thì bình an, tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật, Ngài dạy vì nghiệp sát của ông vẫn còn dù rất vi tế nhưng  vẫn làm chúng sanh phải lo sợ khi gần gũi. Thế mới biết tu tập đã chứng quả vị nhưng vi tế sát nghiệp vẫn còn tiềm ẩn và hiện hành khi đủ nhân duyên.

     Trong vô lượng kiếp tiền thân Đức Như Lai là con chim Oanh Vũ, thương xót cha mẹ bị mù lò, hàng  ngày đi lượm thóc đem về nuôi cha mẹ, bay ngang qua một thưở ruộng nghe được lời phát nguyện của ông điền chủ hiến tất cả lúa cho chim muông, Oanh Vũ vui mừng hàng ngày đến lấy lúa đem về dâng cha mẹ không còn lo lắng đi xa nữa. Sau một thời gian chủ ruộng ra thăm đồng thấy tất cả lúa của mình đã bị sâu bọ chim chóc phá nát, tức giận ông đã giăng lưới bắt được chim Oanh vũ, nó khóc và nói “ Tôi còn cha mẹ bị mù, nếu ông bắt tôi thì cha mẹ tôi sẽ bị chết đói”. Phú hộ nghe xong cảm động vô cùng, tha chim và cho hàng ngày tự do lấy lúa đem về nuôi song thân. Do sự tích này mà trong gia đình Phật tử đặt tên cho các em thiếu nhi là ngành oanh vũ, gồm có mở mắt, cánh mềm, chân cứng và tung bay, nhắc cho các em biết chim mà còn hiếu thảo như vậy huống chi làm con nguời.

     Bây giờ đã đi thật xa nơi đó, không biết những chú chim thơ ngây bây chừ ra sao, chắc lớn rồi, đã có gia đình và có nhiều chim con, có con đã lên hàng ông bà rồi. Bất chợt một sáng mai thức giấc nghe tiếng chim hót, thì ra người xưa đã nói “ Đất lành chim đậu” nơi nào có sự bình an thì các động vật xuất hiện, cầm thú là loại có tánh linh rất cao. Những chú chim này tự tại hơn bay vào trong bếp để lượm cơm, gạo đổ, nhảy trong sân chùa, vô tư, nhí nhảnh và vụt bay nhanh khi bụng đã no, khi thấy cô mèo, chú cẩu xuất hiện. Có thể những con chim này là một trong những con chim trước kia mình đã từng cho nó ăn mỗi buổi sáng, nhưng vì phàm phu không nhận ra được nó mà thôi.

       Làm súc vật, làm chim ở trên đất Mỹ cũng là một hạnh phúc lớn, những chú vịt  tự do đi trong công viên, không phải sợ bị ai bắt ăn thịt. Chim bay từng đàn đến hàng ngàn con mỗi khi gió mùa đông bắc trở về làm đen nghịt một góc trời, chúng bay rất thứ tự, có con chim đầu đàn dẫn đường, chúng tìm đến những thành phố nắng ấm lánh nạn tuyết rơi, sau khi trời ấm chúng trở về quê cũ. 

     Những chú chim thân thương hót vào mỗi buổi sáng như hòa tấu bản thông diệp tình thương gởi đi khắp nơi theo làn gió, nhắc nhở mọi người hãy mở rộng tấm lòng chia xẽ những đau thương do thiên tai, động đất, khủng bố, tật bịnh, đói khát… đang lan tràn trên hành tinh này. Hãy cứu gấp hành tinh xanh đang bị những lò hạt nhân nguyên tử làm ô nhiễm, làm thủng bầu khí quyển, cấp cứu những cánh rừng bạt ngàn đang bị đốt cháy, đang bị đốn chặt một cách vô tư, cứu nguy lòng sông đang bị đào xới khai thác đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, ngăn cản không cho con nguời tùy tiện hủy hoại một cách vô tâm, làm giàu trên sự hủy diệt mầm sống của nhân loại.

        Tíếng chim hót bên cửa sổ, vừng hồng vừa ló dạng như thầm nhắc nhở mọi người ý thức được sự an nguy của trái đất, của sinh mạng mình. Khi con người không biết yêu chuộng, trân trọng thiên nhiên thì những gì đã và đang xảy ra không phải tự nhiên, mà hoàn toàn do con người dùng sự thông minh, hiểu biết thái quá của mình để hủy diệt trái đất này. Đến một ngày nào đó cát bụi sẽ trở về cát bụi, theo quy luật thành, trụ, hoại, không, mà con người phải hứng chịu với mọi hành động vô ý thức của chính mình.  Chim hót bên khung cửa vẫn là hình ảnh an lành thánh thiện mà thiên nhiên đã ban tặng, bạn hãy tận hưởng dù chỉ một phút giây ngắn  ngủi. Xin mời bạn nhé!

                                               Thích Nữ Giới Định

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 2997)
Lá và cành khô đã gẫy đổ, giạt theo mặt hồ từ những ngày tàn xuân. Một số cành khác đã mục rữa từ dưới nước, nhưng vẫn gắng bám rễ nơi sình lầy, đong đưa những chiếc lá khô teo rúm cho đến khi thực sự bật gốc. Rồi một ngày, hai ngày, rồi nhiều ngày qua đi... khi nắng hạ oi ả nóng bức bắt đầu thiêu đốt những lá khô sót lại cuối mùa, những chồi xanh mơn mởn của lá sen vươn lên; từng lá, từng lá, mở ra tròn đầy, mạnh mẽ như thể đang chuẩn bị bảo vệ, chào đón sự xuất hiện phát tiết của những cành hoa. Và khi lá đủ lớn, màu trở nên xanh thẫm hơn, thì những nụ sen cũng vừa trồi khỏi mặt nước, đong đưa theo làn gió nhẹ trưa hè.
10/04/2018(Xem: 3569)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
01/04/2018(Xem: 15654)
Chánh Pháp, số 77, tháng 4.2018, ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ XUÂN ĐẾN VUI GÌ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ KHI GIỮA ĐỜI THƯỜNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 12 ¨ BẢN TÍNH CON NGƯỜI VỐN VỊ KỶ HAY VỊ THA? (Nguyên Hạnh dịch), trang 13 ¨ THƯ CUNG THỈNH CHỨNG MINH/THAM DỰ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2562 (TK. Thích Pháp Tánh), trang 15 ¨ HOÀI NIỆM HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ (Quách Tấn), trang 16 ¨ CÔ ĐỘC HÀNH, HOÀI HƯƠNG (thơ Phù Du), trang 18 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG, t.t. (Tuệ Uyển dịch), trang 19 ¨ KHÓC TỐ NHƯ (thơ Diệu Viên), trang 22 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU: NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ THỦY VIÊN TỊCH (Tổng vụ Ni Bộ), trang 23 ¨ TƯỞNG NIỆM NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ THỦY (TN Như Đức), trang 24 ¨ NHỮNG BÀI HỌC TỪ CÁCH ỨNG XỬ (TN. Như Bảo), trang 26 ¨ MỘT VẦNG TRĂNG (thơ Vĩnh Hảo), trang 27 ¨ VEN. SANGHARAKSHITA (1925 -)
25/03/2018(Xem: 4179)
Khi dòng sông phút trước không còn là dòng sông phút sau, thì đời người phút trước cũng không giống đời người phút sau. Theo dòng thời gian, mọi thứ trôi qua còn nhanh hơn thế nữa. Nhưng thời gian có không, trong sự dịch chuyển của đơn vị vật chất nhỏ nhất (neutron, proton, quantum, photon...)? Một phần triệu giây, hoặc ngắn hơn! Có đơn vị thời gian nhỏ nhất hay không? Có tên gọi cho một khoảnh thời gian quá nhỏ nhiệm như thế không? Thời gian, đối với lý thuyết vật lý hiện đại, chỉ còn là một khái niệm, dường như có, dường như không, hoặc không hề tồn tại, hoặc tồn tại như một ảo tưởng, ảo giác từ tâm thức, hoặc như là một mộng ảo từ sự sinh diệt của một lượng tử, một hạt ‘ánh sáng’ hay ‘sóng’ mơ hồ tức-hữu tức-vô. Long Thọ (1) từ thế kỷ thứ hai chẳng đã từng nói là không làm gì có thời gian hay sao! (2) Vì thời gian do nơi vật thể mà có; mà vật thể như photon (hạt căn bản—elementary particle) còn không thể nói là có hiện hữu như là một “vật” thì thời gian làm gì hiện hữu? (3)
24/03/2018(Xem: 3913)
Nghe, lắng nghe, và không nghe khác nhau ở điểm nào? Nghe. Dĩ nhiên là bằng đôi tai rồi. Nhĩ căn tiếp nhận, giao lưu với Thanh trần. Nhưng có kiểu nghe mà không nghe. Âm thanh vẫn chảy vào, chui vào, tấn công vào hai bên màng nhĩ, mình cảm nhận được là mình đang có nghe, nhưng mình chỉ biết là có nghe vậy thôi, chứ không rõ là mình đang nghe cái chi chi, cái gì gì. Nhà thiền có một công phu, thôi, gọi là phương pháp cho dễ hiểu, là phương pháp mở rộng hết, mở toang ra cả lục căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý) để đón nhận lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) trong cùng một lúc.
16/03/2018(Xem: 15745)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 14727)
Cùng là một tảng đá, một nửa làm thành tượng Phật, một nửa làm thành bậc thang. Bậc thang không phục hỏi tượng Phật rằng: - Chúng ta vốn dĩ cùng là đá, tại sao người ta chà đạp tôi, nhưng lại sùng bái người?! Tượng Phật trả lời: - Vì người chỉ chịu 4 nhát dao đã có được hình hài đó, còn ta lại trải qua trăm ngàn ngọn dao đục đẽo, đau đớn muôn vàn. Lúc đó bậc thang im lặng... Cuộc đời con người cũng thế: Chịu được hành hạ, Chịu được cô đơn,Gánh được trách nhiệm, Vác được sứ mệnh, Thì cuộc đời mới có giá trị...
12/03/2018(Xem: 6942)
Tắt máy. Xuống xe, Mỉm cười. Bình yên. Dạ thưa, con đã đi, mới vừa thượng sơn, và con đã đến. Lạy Phật. Lạy Pháp. Lạy Tăng. Những bước chân khẽ khàng, nhẹ bổng của con đi trên đất, qua sân chùa, theo Thầy từng bậc cấp lên gác chuông, đều cảm nhận được nguồn năng lượng của an lạc.
10/03/2018(Xem: 3938)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - sinh thì là chết?, Các phần trước của loạt bài "Sinh thì là chết?" (11.1, 11.2 và 11.3) đã ghi nhận khả năng liên hệ sinh 生 trong sinh thì với cách đọc Hán Việt thăng[2] 升 và phương ngữ ở phía Nam Trung Quốc (TQ) qua dạng sing/seng (shēng bình thanh, giọng BK bây giờ), hay là một cách dùng nhầm của tiếng Việt[3] (so với nghĩa sinh thì/sinh thời trong tiếng Việt hiện đại). Phần này bàn về khả năng sinh thì là kết quả thể hiện qua ngôn ngữ từ tư duy tổng hợp của người VN: kết hợp lòng tin Công giáo với truyền thống tôn trọng người đã ‘qua đời’ qua uyển ngữ Hán Việt (HV). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn
03/03/2018(Xem: 18630)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]