Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung

08/10/201519:56(Xem: 4900)
Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung

Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung -
vài vết tích sau thời nhà Minh trong từ điển Việt Bồ La (phần 1.4)

Nguyễn Cung Thông

[email protected]

 

Các bài 1.1, 1.2 và 1.3 ghi nhận vài dữ kiện ngôn ngữ cho thấy vết tích của âm đọc chữ Hán sau thời nhà Nguyên (1271-1368) như Phạn (so với Phạm), Phổ Kiến (so với Phúc Kiến), linh nghiện (linh nghiệm), thành ngữ bốn chữ Thượng Hòa Hạ Mục/Mộc. Phần này cho thấy vài vết tích về cách đọc Hán Việt và cách dùng nhập vào tiếng Việt sau thời nhà Minh (1368-1661). Các tài liệu viết tắt là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự - khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes, 1651), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/1931/1954), HV (Hán Việt), Bắc Kinh (BK). Dấu hoa thị (*) chỉ dạng âm cổ phục nguyên (reconstructed sound).

Loạt bài viết "A Mi Đà Phật hay A Di Đà Phật?" và "Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung" hi vọng đóng góp phần nào về cách đọc Hán Việt nói riêng, và quá trình hình thành tiếng Việt nói chung. Ngoài ra, ta nên phải cẩn thận khi nghĩ rằng tiếng Việt đã tiến hóa hoàn toàn độc lập từ thời lấy lại chủ quyền đất nước từ thế kỷ X về sau. Các bài viết này chỉ ghi nhận tương quan ngữ âm vào thời nhà Nguyên và sau này, không xác minh cho nguồn gốc của các từ liên hệ (gốc Hán từ phương Bắc hay gốc phương Nam).

 

1. “Lịch sự” nghĩa tiếng Việt và tiếng Hán

Lịch sự 歷事 là một cụm từ HV ghi nhận vào thời nhà Minh (1368-1661) chỉ chế độ thực tập để thi ra làm quan, nhà Thanh sau đó cũng áp dụng theo chương trình "Lịch Sự" như vậy trong hệ thống tuyển sinh (Quốc Tử Giám). Hoạt động này tương tự như khi các học sinh trung học đi làm lấy kinh nghiệm (bên Úc gọi là work experience, nhưng không có thi khảo hạch như chương trình "Lịch Sự”). Như vậy, nghĩa của lịch sự1 đã thay đổi vào thời VBL (1651) ở VN, dùng để chỉ biết lễ phép (cũng như đã học qua một khóa "Lịch Sự" trong "trường đời") và mở rộng nghĩa thêm để chỉ con người biết điều, sành điệu, đẹp đẽ ...v.v... Trái nghĩa với lịch sự là nhà quê/dà quê, mọi rợ, di địch, lõa lồ, hở hang ... đều hiện diện vào thời VBL: de Rhodes còn ghi nhận thêm "mặc cho lịch sự" (VBL, trang 701). Điều này cho thấy de Rhodes đặc biệt chú ý đến phong tục2 lễ nghi của xứ An Nam. Đây rõ ràng là một vết tích giao lưu ngôn ngữ Việt Trung sau thời nhà Minh, lịch sự tiếng Trung bây giờ không có nghĩa như tiếng Việt! Người viết có kiểm lại cách dùng này với vài người bạn Bắc Kinh, Thượng Hải thì thấy họ không dùng (và không hiểu rõ - có thể còn lộn với lịch sử 歷史 !!)

 

nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-000



VBL – trang 413

 

nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-001 










VBL – trang 701

 nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-006



Aubaret (1867)

 

2. Sóc là sói (hói)

Thời VBL, sóc với phụ âm đầu là xát/đầu lưỡi nhưng vẫn duy trì phụ âm cuối tắc -c. Tuy nhiên, dạng sóc3 còn được dùng đồng thời với dạng sói (VBL) và dạng sói này vẫn còn trong tiếng Việt cho đến ngày nay.

Chữ thốc 禿 (thanh mẫu thấu 透 vận mẫu ốc 屋 nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

 

 

他谷切 tha cốc thiết (TVGT, ĐV, QV, TV, VH, CV, LT, TG 字鑑, TVi, TĐTAT, TQTHCN 增廣字學舉隅, TĐTAT重訂直音篇) - theo TVGT là 無髮也 vô phát dã (không có tóc). TVi ghi âm 通入聲 thông nhập thanh

吐木切 thổ mộc thiết (NT, TTTH)

它谷切 tha cốc thiết (LTCN 六書正擶)

CV (1375) ghi thốc cùng vần với 禿 牘 蔟 族 ngốc độc thốc tộc

吐谷切, 音突 thổ cốc thiết, âm đột (CTT) - thời TVi (1615), CTT (1670) phụ âm cuối đã mất đi nên các âm HV thốc và đột đều đọc giống nhau - so với âm tū giọng Bắc Kinh bây giờ

...v.v...

 

 

Giọng Bắc Kinh bây giờ theo pinyin là tū so với giọng Quảng Đông tuk1 và các giọng Mân Nam 客家话:[陆丰腔] tut7 [梅县腔] tut7 [宝安腔] tut7 [东莞腔] tuk7 [客语拼音字汇] tug5, giọng Mân Nam/Đài Loan thut1, tiếng Nhật toku và tiếng Hàn tok. Tiếng Tày Nùng còn dùng dạng xoọc nghĩa là hói.

 

nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-003 





VBL/1651 – trang 692

 

 

3. Giáo (sáo) từng là sóc

Giáo đã mất phụ âm cuối -c, phản ánh âm đọc thời Trung Nguyên Âm Vận (1324) khi các phụ âm cuối tắc đã tha hóa. Chữ sáo/sóc 槊 (thanh mẫu sanh 生 vận mẫu giác 覺 nhập thanh, khai khẩu nhị đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

 

 

所角切 sở giác thiết (TVGT, ĐV, NT, QV, TG 字鑑, TTTH) - QV/TV ghi nhập thanh 入聲

色角切,音朔 sắc giác thiết, âm sóc (TV, VH, LT, CV, LTCN 六書正𨫠, TVi, CTT)

CV (1375) ghi cùng vần 朔 數 蒴 矟 槊 箾 嗽 (sóc sổ sáo thấu)

山卓切 san trác thiết (TTTH)

...v.v...

 

 

Giọng BK bây giờ là shuò so với giọng Quảng Đông sok3 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] sok7 [陆丰腔] sok7 [客英字典] sok7 [海陆丰腔] sok7 [台湾四县腔] sok7, tiếng Nhật saku và tiếng Hàn sak.

Vào thời CV (1375) thì âm sóc đã mất phụ âm cuối để cùng vần với 箾 嗽 tiêu (sáo) và thấu - ngay chính thành phần hài thanh sóc 朔 cũng đã mất phụ âm cuối như từng ghi trong TVi (1615):

 

蘇故切,音素 tô cố thiết, âm tố

 

Rõ ràng cách đọc giáo trong tiếng Việt là vết tích của âm sóc sau thời QV, TV (sau thế kỷ XI). Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa/CNNAGN4, Binh Khí Bộ - Đệ Nhị Thập Bát còn ghi giáo là 教 cho thấy phụ âm cuối/tắc đã không còn hiện diện vào giai đoạn này.

 

Trường thương giáo dài cứng lành (CNNAGN)

 

Định nghĩa này/CNNAGN rất phù hợp với giải thích của TV (1037/1067) trường mâu5 長矛- xem hình chụp phần Phụ Chú.

 

Ta quen đọc là sáo    ("Hán Việt Tự Điển", Thiều Chửu))

 

Trần Quang Khải 陳光啟 (1241-1294) đã ghi lại câu nói bất hủ: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan 奪槊章陽渡, 擒胡鹹子關 (Tòng giá hoàn kinh 從駕還京) Cướp giáo (giặc) ở bến Chương Dương, Bắt quân Hồ ở ải Hàm Tử.

 

Nguyễn Trãi 阮廌 (1380-1442) cũng dùng sáo/giáo: Sáo ủng sơn liên ngọc hậu tiền 槊擁山連玉後前 (Thần Phù hải khẩu 神符海口) Giáo dựng núi liền tựa ngọc bày trước sau.

 

4. Bá cũng là bác

Âm HV bá6 (anh của cha) là vết tích của âm sau thời nhà Nguyên/Minh, như các cách dùng bá phụ, bá mẫu, lão bá, bá tước ... Âm bác là âm cổ hơn như từng được ghi nhận trong TVGT, ĐV, QV ... Bác được nhắc đến trong VBL (trang 17) và trong "Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh".

Chữ bách/bá 伯 (thanh mẫu bang 幫 vận mẫu mạch 陌 nhập thanh, khai khẩu nhị đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

 

 

博陌切,音百 bác mạch thiết, âm bách (TVGT, ĐV, QV, TV, LT, CV, TTTH) - QV/TV/LT ghi nhập thanh 入聲

必駕切 tất giá thiết (CV, CTT) - tất đọc là bì (giọng BK bây giờ)

蒲各切,音博 bồ các thiết, âm bác (TVi, KH)

壁益切,音必 bích ích thiết, âm tất (TVi, KH)

博故切,音布 bác cố thiết, âm bố (TVi, KH)

TNAV ghi thêm thượng thanh, vận bộ 皆來 giai lai

CV ngoài các vần bách 百 佰 伯 迫 柏 栢 còn ghi vần bá bả 霸 伯 灞 壩 靶 把

莫駕切 mạc giá thiết (CV) - CV ghi thêm khứ thanh (so với nhập thanh - bác mạch thiết)

補陌翻 bổ mạch phiên (BH 佩觿)

莫百切 mạc bách thiết (NT)

博麦切,音百 bác mạch thiết, âm bách (TVi)

莫駕切, 音罵 mạc giá thiết, âm mạ (TVi)

博木切 bác mộc thiết (TVi)

布格切,音百 bố cách/các thiết, âm bách (CTT)

...v.v...

 

 

Giọng BK bây giờ là bǎi bà bó so với giọng Quảng Đông baak3 baa3 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] bak7 [宝安腔] bak7 [客英字典] bak7 [客语拼音字汇] bag5 [海陆丰腔] bak7 [陆丰腔] bak7 [沙头角腔] bak7 [台湾四县腔] bak7 [东莞腔] bak7 潮州话:bêg4(pek) bêh4(peh), giọng Mân Nam/Đài Loan peh1, tiếng Nhật haku ha và tiếng Hàn payk phay.

 

Trong Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa có các cách dùng

 

Bá Phụ bác trai ngỏ ngàng

Bác gái có hiệu bà nương thuận cùng (Nhân Luân Bộ Đệ Tam)

...

Trong CNNAGN, chữ bác ghi bằng phó/phụ 傅 cho thấy phụ âm cuối không còn hiện diện. Một dạng chữ Nôm (Hồ Xuân Hương, Lý Hạng Ca Dao ...) chỉ bác là 博 bác phản ánh cách đọc cổ hơn với phụ âm cuối vẫn còn duy trì.

 

Trong An Nam Dịch Ngữ7 cũng có các cách dùng

 

Bá Phụ    bác cha  八查

Bá Mẫu    bác mẹ   八?

 

Các kí âm trên cho thấy tiếng Việt thời Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa và An Nam Dịch Ngữ vẫn còn duy trì phụ âm cuối/tắc (-k) trong âm bác.

Các dữ kiện như phạn (phạm), linh nghiện (linh nghiệm), lịch sự, thượng hòa hạ mục/mộc, Phổ Kiến (Phúc Kiến), giáo (sáo, sóc), sói (hói, sóc), bá (bác) ... cho thấy cách dùng và phát âm tiếng Hán sau thời nhà Nguyên, tuy VN đã dành lại độc lập từ bao thế kỷ trước đó … Tiếng Việt còn duy trì một số trường hợp âm cổ (bác) hiện diện song hành với âm mới hơn như phạn (phạm), bác (bá). Cách đọc (niệm) A Mi Đà Phật so với A Di Đà Phật phản ánh rất rõ giao lưu ngôn ngữ Việt Trung trong vòng ba thập niên qua.

 

 

5. Phụ chú và phê bình thêm

Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La) in lại bởi NXB Khoa Học Xã Hội (1991); có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false

Để cho liên tục, bạn đọc có thể xem bài "Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung qua con đường Phật giáo - âm Hán Việt phạm hay phạn? (phần 1.1)" trang này chẳng hạn http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=21418 hay http://www.daophatngaynay.com/vn/files/file-nen/nhungdotsong_524971468.pdf . Bài viết "Những đợt sóng giao lưu ngôn ngữ Việt-Trung qua con đường tôn giáo - vài vết tích sau thời nhà Nguyên trong từ điển Việt Bồ La (phần 1.3)" trang http://www.daophatngaynay.com/vn/tai-lieu/tu-dien-tham-khao/18372-nhung-dot-song-giao-luu-ngon-ngu-viet-trung-qua-con-duong-ton-giao-vai-vet-tich-sau-thoi-nha-nguyen-trong-tu-dien-viet-bo-la-phan-1-3.html ...v.v...

 

1) Lịch sự 歷事 - xem giải thích và nguồn gốc của lịch sự trang http://www.zdic.net/c/jd/?c=6/2b/67677 . Năm 1931, cụ Đào Duy Anh/ĐDA có ghi nhận về cách dùng lịch sự như sau:

"Lịch sự: do ở chữ am lịch - sự cố, luyện lịch sự tình, canh lịch sự biến mà ra = Trải việc đời, việc gì cũng biết - Nay ta thường dùng theo nghĩa sắc đẹp, hoặc giao thiệp khôn khéo" (HVTĐ - trang 502). Đây cũng phản ánh phần nào khắc khoải của ĐDA: có thể ĐDA đã đọc ở đâu hay đoán là cách dùng là như vậy vào thời này, nhưng tôi tra cứu (cho tới nay 9/2015) thì chưa thấy cách dùng bốn chữ này (am lịch sự cố) trong dân gian - đương nhiên cách dùng am lịch và sự cố đã hiện diện từ lâu đời (nhà Tấn, Đường ...).

 

2) Ngay cả LM dòng Tên Matteo Ricci (1552-1610), bậc đàn anh của LM Alexandre de Rhodes và có nhiều đóng góp quan trọng vào công cuộc truyền giáo ở TQ, đã biết thích nghi với cách ăn mặc địa phương - trích từ trang https://en.wikipedia.org/wiki/Matteo_Ricci#/media/File:Matteo_Ricci_2.jpg

 

nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-004

 











LM Matteo Ricci trong y phục truyền thống TQ

 

 

3) Không những sóc (VBL - sói/hói tiếng Việt hiện đại) liên hệ đến thốc HV, VBL còn ghi nhận dạng tlọc hay trọc (trang 811) dẫn đến khả năng sóc và trọc cùng một gốc (ngữ căn). Tương quan giữa tổ hợp phụ âm tl/tr và s đã hiện diện trong VBL như

 

Tlóm con mắt (VBL - trang 811/812) - hay tốt hơn đọc là sởm

 

Ngoài ra, so sánh các trường hợp

 

blái tlôi > trái *sôi ~ trái soài  (VBL trang 811)

bánh tlôi nước (VBL trang 811) > bánh/chè sôi nước

gà sống (VBL trang 697) ~ gà trống

trái (trái phép) ~ sái (sái phép)

tréo ~ xéo

trệch ~ xếch

...v.v...

 

 

4) "Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa" (CNNAGN) Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải - NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội 1985)

 

5) Tập Vận (TV) 集韻 soạn vào thời Tống (1037/1067) có 53525 chữ Hán, khoảng hai lần Quảng Vận (QV)

 nhung-dot-giao-luu-ngon-ngu-Viet-Trung-005

 


















 Tập Vận (1037/1067)

 

6) Bách/bá 伯 viết bằng bộ nhân hợp với chữ bạch 白, tuy âm bạch vẫn còn duy trì trong tiếng Việt (chó bạch) nhưng phụ âm cuối/tắc của bách đã tha hóa để cho ra dạng bá. Các chữ khác dùng bạch làm thành phần hài thanh vẫn còn đọc là bách như cây bách 柏, bạch 帛 (lụa trắng), bách 迫 hại ...v.v...

Các dạng bá tánh (bách tính 百姓, trăm họ), bá quan (bách quan 百官, các quan gọi chung), bá bệnh (bách bệnh 百病, chỉ chung các chứng bệnh) đều là các cách dùng rất lâu đời trong Sử Kí, Kinh Dịch, Lã Thị Xuân Thu ...Nhưng cách đọc bá (so với bách) là cách đọc sau này mà thôi.

 

7) "An Nam Dịch Ngữ" Vương Lộc giới thiệu và chú giải - NXB Đà Nẵng (Đà Nẵng, 1995).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 3016)
Lá và cành khô đã gẫy đổ, giạt theo mặt hồ từ những ngày tàn xuân. Một số cành khác đã mục rữa từ dưới nước, nhưng vẫn gắng bám rễ nơi sình lầy, đong đưa những chiếc lá khô teo rúm cho đến khi thực sự bật gốc. Rồi một ngày, hai ngày, rồi nhiều ngày qua đi... khi nắng hạ oi ả nóng bức bắt đầu thiêu đốt những lá khô sót lại cuối mùa, những chồi xanh mơn mởn của lá sen vươn lên; từng lá, từng lá, mở ra tròn đầy, mạnh mẽ như thể đang chuẩn bị bảo vệ, chào đón sự xuất hiện phát tiết của những cành hoa. Và khi lá đủ lớn, màu trở nên xanh thẫm hơn, thì những nụ sen cũng vừa trồi khỏi mặt nước, đong đưa theo làn gió nhẹ trưa hè.
10/04/2018(Xem: 3595)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
01/04/2018(Xem: 15790)
Chánh Pháp, số 77, tháng 4.2018, ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ XUÂN ĐẾN VUI GÌ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ KHI GIỮA ĐỜI THƯỜNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 12 ¨ BẢN TÍNH CON NGƯỜI VỐN VỊ KỶ HAY VỊ THA? (Nguyên Hạnh dịch), trang 13 ¨ THƯ CUNG THỈNH CHỨNG MINH/THAM DỰ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2562 (TK. Thích Pháp Tánh), trang 15 ¨ HOÀI NIỆM HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ (Quách Tấn), trang 16 ¨ CÔ ĐỘC HÀNH, HOÀI HƯƠNG (thơ Phù Du), trang 18 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG, t.t. (Tuệ Uyển dịch), trang 19 ¨ KHÓC TỐ NHƯ (thơ Diệu Viên), trang 22 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU: NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ THỦY VIÊN TỊCH (Tổng vụ Ni Bộ), trang 23 ¨ TƯỞNG NIỆM NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ THỦY (TN Như Đức), trang 24 ¨ NHỮNG BÀI HỌC TỪ CÁCH ỨNG XỬ (TN. Như Bảo), trang 26 ¨ MỘT VẦNG TRĂNG (thơ Vĩnh Hảo), trang 27 ¨ VEN. SANGHARAKSHITA (1925 -)
25/03/2018(Xem: 4208)
Khi dòng sông phút trước không còn là dòng sông phút sau, thì đời người phút trước cũng không giống đời người phút sau. Theo dòng thời gian, mọi thứ trôi qua còn nhanh hơn thế nữa. Nhưng thời gian có không, trong sự dịch chuyển của đơn vị vật chất nhỏ nhất (neutron, proton, quantum, photon...)? Một phần triệu giây, hoặc ngắn hơn! Có đơn vị thời gian nhỏ nhất hay không? Có tên gọi cho một khoảnh thời gian quá nhỏ nhiệm như thế không? Thời gian, đối với lý thuyết vật lý hiện đại, chỉ còn là một khái niệm, dường như có, dường như không, hoặc không hề tồn tại, hoặc tồn tại như một ảo tưởng, ảo giác từ tâm thức, hoặc như là một mộng ảo từ sự sinh diệt của một lượng tử, một hạt ‘ánh sáng’ hay ‘sóng’ mơ hồ tức-hữu tức-vô. Long Thọ (1) từ thế kỷ thứ hai chẳng đã từng nói là không làm gì có thời gian hay sao! (2) Vì thời gian do nơi vật thể mà có; mà vật thể như photon (hạt căn bản—elementary particle) còn không thể nói là có hiện hữu như là một “vật” thì thời gian làm gì hiện hữu? (3)
24/03/2018(Xem: 3940)
Nghe, lắng nghe, và không nghe khác nhau ở điểm nào? Nghe. Dĩ nhiên là bằng đôi tai rồi. Nhĩ căn tiếp nhận, giao lưu với Thanh trần. Nhưng có kiểu nghe mà không nghe. Âm thanh vẫn chảy vào, chui vào, tấn công vào hai bên màng nhĩ, mình cảm nhận được là mình đang có nghe, nhưng mình chỉ biết là có nghe vậy thôi, chứ không rõ là mình đang nghe cái chi chi, cái gì gì. Nhà thiền có một công phu, thôi, gọi là phương pháp cho dễ hiểu, là phương pháp mở rộng hết, mở toang ra cả lục căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý) để đón nhận lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) trong cùng một lúc.
16/03/2018(Xem: 15833)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 14819)
Cùng là một tảng đá, một nửa làm thành tượng Phật, một nửa làm thành bậc thang. Bậc thang không phục hỏi tượng Phật rằng: - Chúng ta vốn dĩ cùng là đá, tại sao người ta chà đạp tôi, nhưng lại sùng bái người?! Tượng Phật trả lời: - Vì người chỉ chịu 4 nhát dao đã có được hình hài đó, còn ta lại trải qua trăm ngàn ngọn dao đục đẽo, đau đớn muôn vàn. Lúc đó bậc thang im lặng... Cuộc đời con người cũng thế: Chịu được hành hạ, Chịu được cô đơn,Gánh được trách nhiệm, Vác được sứ mệnh, Thì cuộc đời mới có giá trị...
12/03/2018(Xem: 7025)
Tắt máy. Xuống xe, Mỉm cười. Bình yên. Dạ thưa, con đã đi, mới vừa thượng sơn, và con đã đến. Lạy Phật. Lạy Pháp. Lạy Tăng. Những bước chân khẽ khàng, nhẹ bổng của con đi trên đất, qua sân chùa, theo Thầy từng bậc cấp lên gác chuông, đều cảm nhận được nguồn năng lượng của an lạc.
10/03/2018(Xem: 3978)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - sinh thì là chết?, Các phần trước của loạt bài "Sinh thì là chết?" (11.1, 11.2 và 11.3) đã ghi nhận khả năng liên hệ sinh 生 trong sinh thì với cách đọc Hán Việt thăng[2] 升 và phương ngữ ở phía Nam Trung Quốc (TQ) qua dạng sing/seng (shēng bình thanh, giọng BK bây giờ), hay là một cách dùng nhầm của tiếng Việt[3] (so với nghĩa sinh thì/sinh thời trong tiếng Việt hiện đại). Phần này bàn về khả năng sinh thì là kết quả thể hiện qua ngôn ngữ từ tư duy tổng hợp của người VN: kết hợp lòng tin Công giáo với truyền thống tôn trọng người đã ‘qua đời’ qua uyển ngữ Hán Việt (HV). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn
03/03/2018(Xem: 18749)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]