Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử bàn về Trí & Ngu

25/11/201408:39(Xem: 4511)
Thử bàn về Trí & Ngu
phong canh 3
Có một “truyện cổ Khờ-me”, như sau:“- Ngày xửa, ngày xưa có ông vua, một đấng minh quân, cùng với mấy vị quan trọng thần rong thuyền ngoạn du sông nước. Trời nắng như đổ lửa, dòng nước ngược chảy xiết nên những người phu chèo đầm đìa mồ hôi, mặt mũi đỏ au, ráng tận sức lực để chèo đẩy con thuyền đi.

Nhìn mấy vị quan cận thần của vua nằm thung dung trong mái che, có mấy cô thị nữ đẹp như tiên nga hầu trà rượu, anh trưởng phu chèo phơi mình giữa cái nắng nóng như thiêu đốt, tựa hồ ngồi trong chảo rang, tức giận nói nhỏ với người bên cạnh:

- Thật chẳng công bằng chút nào cả. Mình cũng là người như họ, cũng là thần dân của vua, nhưng sao mình khổ thế này mà họ lại sướng thế cơ chứ?

Tiếng ấy tuy nhỏ nhưng nhà vua nghe được. Khi thuyền ghé bến một ngôi đền nguy nga, tráng lệ, mọi người được nghỉ để dùng cơm trưa. Vua và các quan trọng thần được ăn những món sơn hào hải vị, còn những phu chèo thì mỗi người tự lôi ra một đùm cơm với thức ăn khô trộn mắm sẵn. Anh trưởng phu chèo lại bực mình, nói nhỏ: - Xem họ kìa! Một bữa ăn của họ, mình dành dụm một năm không ăn thua! Sao bất công vậy trời! Vô tình, tiếng nói ấy cũng lọt vào tai vua. Lát sau, bỗng có tiếng ồn ào rồi có tiếng một bầy chó sủa vang inh. Vua đã có dụng ý nên đi đến nói nhỏ với người trưởng phu: - Ngươi hãy lên trên đó xem có chuyện gì mà ồn ào dữ vậy?

Người trưởng phu hối hả chạy lên, một hồi rồi chạy xuống: - Tâu bệ hạ! Có mấy con chó mà ồn ào vậy đấy!
- Thế có bao nhiêu con?
Người trưởng phu lại chạy lên, lát về báo:
- Dạ, có bảy con ạ!
- Thế chó đực hay chó cái?
Người trưởng phu lại chạy lên rồi chạy xuống:
- Thưa, bốn con chó đực và ba con chó cái ạ!
Vua lại hỏi nữa:
- Thế lông chúng màu gì ông có biết không?
Người trưởng phu lại cất công lên và xuống nữa:
- Tâu bệ hạ! Lông chúng màu đen, màu vàng và màu trắng ạ!

Đức vua mỉm cười:- Ngươi ngồi đây, trẫm thưởng một chén rượu!

Rồi vua bước vào bên trong thò cây quạt đánh thức một vị quan còn trẻ, đang ngủ:
- Này, ông lên trên kia xem cái gì mà ồn ào vậy?
Vị quan kia thung dung bước đi, lát sau về trình:
- Tâu bệ hạ! Có bốn con chó đực và ba con chó cái gây ồn ào. Mấy con chó con thì màu trắng, đen và nâu còn mẹ nó thì màu đen xám. Đấy là đàn chó của người giữ đền, thấy khách đến, chúng sủa um lên như thế đó!

Bây giờ, nhà vua mới quay sang người trưởng phu, chậm rãi nói: - Ngươi lên xuống cả thảy bốn lần mới có thông tin về bốn câu hỏi của trẫm! Còn ông quan này chỉ đi một lần mà lấy đầy đủ thông tin còn nhiều hơn ngươi. Đây là lý do tại sao ông ta làm quan, còn ngươi chỉ làm phu chèo, mặc dù ai cũng là người cả! Vậy từ nay đừng than cuộc đời là không công bằng, là bất công nữa nhé!”

Thấy nội dung câu chuyện rất có ý nghĩa nên cách đây mười mấy năm, tôi thử đem áp dụng trong đời sống của tu viện. Có hai chú bé ở thôn Đồng Chầm, Hương Hồ sang chùa xin tu học, đều là con nhà nghèo khổ thiếu cơm thiếu áo. Nhìn sơ về “nhân tướng” thì rõ ràng cái “gène” di truyền và dư nghiệp xấu ác từ quá khứ đã hiện rõ trên mặt mũi chúng nên chắc hẳn cũng khó mà thông minh sáng láng, có trí, có tài được. 
 
Nhận những chú bé nầy mà rèn giũa để trở thành những “sứ giả Như Lai” trong mai hậu thì quả thật, còn khó hơn “mài sắt nên kim”. Mà thôi kệ, hãy cho chúng gieo một chút duyên lành cũng là việc nên làm của nhà chùa. Mà quả thật vậy, cả ba thôn làng nghèo khổ quanh vùng như Long Hồ, Ngọc Hồ, Hương Hồ gởi con cháu đến tu học có năm lên tới 22 trẻ, tuổi từ 10-11 đến 14-15. Chùa sắm đến 22 chiếc xe đạp cho chúng đi học hằng ngày. Chỉ vài năm sau, do hoàn cảnh này, hoàn cảnh khác chúng về nhà gần hết và 22 chiếc xe đạp cũng tiêu tùng luôn, do chúng phá phách, do chạy ẩu đứt phanh rơi xuống hố hoặc hư đâu quăng đó...

Trở lại chuyện hai chú điệu. Một chú có vẻ rất khôn, lanh có pháp danh là CH. Đ; một chú lại rất dại, chậm, có pháp danh là CH. N. Để thử “trí”  hai chú điệu, hôm nọ, nghe phía bìa rừng ngoài có tiếng chặt cây (thường là chặt trộm), tôi bảo điệu CH. N. (chú chậm chạp):
- Con ra xem tại sao lại có tiếng cây đổ?
Lát sau, trở vào, chú thưa:
- Bạch thầy, người ta chặt cây!
- Ai chặt?
CH. N. lại chạy đi một hồi rồi về thưa:
- Dạ, ông Ất, người ngoài đội 7.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế họ chặt cây to hay cây nhỏ.
Điệu lại chạy đi một hồi nữa mới có lời đáp:
- Dạ, cây to!
Tôi mỉm cười:
- Thôi, cảm ơn con, con đi ra ngoài chơi, nhân tiện gọi điệu CH.Đ (chú lanh lẹ) vào cho thầy có việc.

Điệu CH.Đ vào, tôi cũng bảo tương tự. Điệu CH.Đ đi hồi lâu mới về, rồi thưa:
- Bạch thầy, cái cây “lười ươi” hoa đỏ đẹp nằm bên tảng đá góc đường, chú Ất chú chặt rồi. Con hỏi, tại sao cây của chùa mà chú lại chặt? Chú Ất nói: “Ối chào! Rừng chùa cả vạn vạn cây, tôi đói, tôi nghèo, tôi chặt một cây về làm củi thì đã chết ai nào! Nhà chùa thì phải có lòng từ bi chứ?” (tôi chỉ ghi lấy cái “ý”chứ điệu không có ngôn ngữ diễn đạt được như thế).

Thấy “thông tin” mà được vậy thì quả là có “trí”, vượt cả “nội dung” yêu cầu, tôi bèn hỏi tiếp để thử khả năng ứng xử ra sao.
- Vậy thì khi chú Ất bảo như thế thì con trả lời làm sao?
- Dạ... dạ... con chịu!
Tôi cũng mỉm cười:
- Con chịu thì thầy cũng chịu!
Như vậy, tôi kết luận trong tâm: Điệu CH.Đ lanh lẹ, có trí; điệu CH.N chậm chạp, trí kém. 
 
Thời gian sau, quan sát, điệu được gọi là có trí, thì quả thật có sáng trí, miệng lưỡi mau mắn, lanh lẹ... nhưng các sư trong chùa ai cũng phải dè chừng! Thứ nhất là làm việc gì cũng cẩu thả, qua quít, làm cho xong như tưới nước thì thấy ướt lung tung nhưng không thấm cây, thấm đất; như quét sân, quét vườn thì bỏ bỏ sót chỗ này, chỗ khác. Thứ hai là thường ăn cắp vặt trong cốc liêu của các sư nhưng rất khó phát hiện. Thứ ba lại hay nói ba hoa, không thật như tục ngữ: “Mười voi không có một bát nước xáo!” Lại còn phải nói là từ “xạo” cho đến “xảo” được biểu hiện rất chỉnh chu, qua mặt rất nhiều người trong chùa...

Nơi chỗ tôi ở, Phật tử thường cúng dường bì thư này, bì thư khác có tiền ở trong, và tôi thường bỏ lung tung, khi thì trong quyến sách, khi thì để nguyên trên bàn, trong “gièm” (túi vải đựng đồ) hoặc nơi chỗ ghế nằm. Vài lần đầu tiên, khi được cắt cử dọn dẹp, quét phòng, điệu CH.Đ lượm các bì thư trao hết cho tôi để chứng tỏ mình thật thà. Thấy mắt cậu ta thường đảo ngược, đảo xuôi như chớp, tôi nghi cái tính thật thà ấy nên các bì thư để chỗ này, chỗ kia, tôi ghi nhớ hết và nhớ cả số tiền bên trong lúc đến phiên chú. Lần này, cậu ta cũng trả lại nhưng thiếu một bì thư có “tiền ít nhất!” Thế là tôi biết chú gian nhưng khôn; tuy nhiên, tôi cứ để bụng vậy, không nói với ai! 

Có lần, tôi và chư sư đang uống trà ở phòng ngoài, cửa “Phong Trúc Am” khép hờ. Thế mà điệu CH.Đ quành ra ngã sau, lên mái, “lòn” (lách, luồng) kẽ hở tam giác nơi nóc nhà (địa phương ngữ Thừa Thiên, Quảng Trị gọi là “khu đị” ) leo xuống rồi lấy tiền nằm trong thùng gỗ phước sương, không nghe một tiếng động, ma chẳng biết, quỷ chẳng hay! Khôn, lanh và “xảo trí” như vậy đó!

Còn chú CH.N thì rõ ràng là chậm, ngu, đần (thiểu năng), một câu niệm Phật Pāḷi mà một tháng cũng không thuộc, học hành ở trường luôn đội sổ. Lớp nào cũng học“đúp” cả! Điệu này có trí kém, phát triển“thân” chứ “óc” thì lại teo tóp. Có ai tưởng tượng cái bụng của cậu bé 13, 14 tuổi mà ăn một lần 7 gói mì tôm, còn 3 gói để trong túi, cất dành nhai chơi, nhai luôn miệng! Mỗi lần ăn cơm phần mình xong, trên bàn còn gì, chú làm sạch, đôi khi mất luôn phần ăn của cả chó và mèo! 
 
Còn nắm bắt, ghi nhớ công việc thì là kẻ “đặc biệt” nhất trong chùa. Rất nhiều lần, tôi sai công việc, ví dụ dặn ba việc thì thường là chú chỉ nhớ việc cuối - tức là việc vừa nói xong - còn hai việc trước óc chú không lưu trữ! Đã như vậy, điệu còn gian, nhưng mà gian ngu. Khi nào khều tiền được trong thùng phước sương hoặc lấy cắp của các sư, chú ra chợ mua đồ ăn ngay hoặc sắm cái này, cái kia rồi còn đem khoe với mọi người, như kiểu “lạy ông tôi ở bụi này!” 
 
Biết máu ngu gian ở sẵn trong dòng nghiệp nên các sư nhiều lần chỉ phạt cảnh cáo rồi tha thứ... nhưng tánh tật cũng không chừa. Hôm nọ, thấy thùng gỗ phước sương mất, các sư đi tìm thì thấy thùng gỗ nằm ở bìa rừng, còn nguyên! Đến xem nơi “miệng”, chỗ nhét tiền thì thấy tờ một ngàn nửa trong nửa ngoài.
- Đúng thủ phạm là ông CH.N rồi!
Một sư phát biểu.
Một sư khác:- Đúng là ngu! Ngu kiểu này chỉ có ông CH.N! Sao không đập thùng gỗ luôn mà lấy tiền, đã vác ra tận đây rồi mà còn “kiên nhẫn” lấy que cây khoèo từng đồng một!

Mấy năm sau rồi chú nào cũng về đời. Chú lanh lẹ thì đi theo con đường trộm cắp, đâm chém rồi xì-ke, ma tuý, tội tù. Chú chậm chạp học nghề sửa xe đạp ba năm cũng không thành. Có lần, chú CH.Q. trong chùa bị nổ lốp xe đạp, vào quán học việc của CH.N để sửa. Chủ đi vắng. Thấy CH.N “mày mò” xoay trở hoài cái lốp vẫn không mở ra được. Bực mình, chú CH.Q phải đích thân ra tay, tự tháo lốp rồi vá xe luôn nhưng vẫn trả tiền công cho chú ấy kẻo tội.

Nhiều năm ở chùa, dạy dỗ, hướng dẫn cả trăm giới tử, nghiệm lại, tôi thấy rằng, gặp người sáng trí thì coi chừng trí xảo. Gặp người nom có vẻ hiền lành nhưng chưa chắc là thật thà, chơn chất đâu! Gặp một người vừa sáng trí vừa chân thật, hiền thì xem quý hơn kim cương!

Trở lại với câu chuyện cổ Khờ-me, rõ ràng là có cái gì bất ổn. Kẻ ngu thì không nói làm gì, nhưng kẻ có trí, trí nhanh, trí sáng như ông quan kia thì mới chỉ đúng một vế (lanh, có trí) mà bỏ quên cái tâm, cái đức ở vế đi sau! Và dường như thế gian người ta thường chọn người tài trí để phụ trách các công việc, từ vĩ mô cho đến vi mô, không có nơi nào đào tạo cái đức, cái tâm, các giá trị nhân văn, nhân bản như ông cha ta thuở trước (Thân Nhân Trung) đã lập ngôn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia!”  
 
Hiền tài chứ không phải chỉ có cái tài, như người ta “đào tạo nhân tài!” như hiện nay. Nội hàm chữ “hiền” rất quan trọng, như hiền nhân, hiền giả, hiền sĩ... là tinh hoa cốt cách của đạo học Đông phương. Bỏ quên chữ hiền, quả thật là thiếu sót rất lớn, cái thiếu sót nền tảng: Đấy là đạo đức, nhân cách, cái làm nên chuẩn mực con người, thật sự là Con Người viết hoa!

 Mấy ông quan trong truyện cổ kia cũng là tiêu chuẩn cho xã hội ngày nay tuyển chọn những bậc “phụ mẫu chi dân” ăn trên ngồi trước trong các nấc thang giá trị vật chất - nhưng nếu họ không lương thiện, không có đạo đức, họ chưa hoàn thiện hai chữ Con Người thì sao nhỉ? Hy vọng đấy không phải là câu hỏi tu từ!

Như vậy thì cái trí, cái tài kia là cần nhưng chưa đủ. Và nếu cái trí ấy là trí xảo, và cái tài ấy không phải là cái tài của sở học, của khoa học, của chuyên môn mà là cái tài của mưu ma chước quỷ thì quả là hiểm hoạ cho nhân gian! Và hiện nay, cái hiểm hoạ kia còn chồng thêm một tầng nữa: Một nơi nào đó, chúng ta có thấy chăng, những người có trí, có tài thật sự, đôi khi cả đức, cả tâm nữa vẫn không được“thế gian mắt sáng” sử dụng: Họ vẫn còn ngồi chèo đò đổ mồ hôi, ăn cơm vắt như các phu chèo trong truyện cổ Khờ-me kia! 
 
Rồi lại còn biết bao nhiêu kẻ vô trí, vô tài, vô đức lại được ăn sơn hào hải vị, được ngơi nghỉ cùng vua, được mỹ nữ cúc cung hầu hạ ca vũ nhạc kịch làm vui! Ôi! Nhân quả vốn công bằng, phân minh nhưng tại sao, thời đại văn minh này, chúng lại điên đảo, “lộn tùng xèo” như thế?

Còn Phật học thì sao nhỉ? Với Phật học thì hiền tài như thế cũng chỉ là chuyện của thế gian. Thước đo, tiêu chuẩn để phân biệt đâu là xấu ác, kẻ ngu si, đâu là người lành tốt, bậc trí hiền thì nó có khác. Như trong kinh Hiền Ngu (Bālapaṇḍita-sutta):

“- Này các thầy! Kẻ xấu ác, người ngu (bāla), chúng có ba đặc tướng, ba đặc điểm rất rõ ràng, chân xác: Ấy là suy nghĩ xấu ác, nói lời xấu ác và hành động xấu ác. Khi thấy một người có ba dấu hiệu ấy thì ta sẽ biết ngay, đây là kẻ xấu ác chớ không phải bậc trí hiền (paṇḍita). Ngược lại, người lành tốt, bậc trí hiền cũng có ba đặc tướng, ba đặc điểm rất rõ ràng, chân xác: Ấy là suy nghĩ lành tốt, nói lời lành tốt và hành động lành tốt. Khi thấy một người có ba dấu hiệu ấy thì ta sẽ biết ngay, đấy là người lành tốt, là bậc trí hiền chứ không phải là kẻ xấu ác!”

Tiêu chuẩn Phật học là vậy, về con người, về phẩm chất cần và đủ của tác phong, của nhân cách trọn lành ba nghiệp thân, khẩu ý - khi muốn làm sứ giả Như Lai giữa thời đại mạt pháp nầy. Vậy nơi nào đi ngược, đi nghịch với thước đo nêu dẫn ấy thì không còn là Phật giáo nữa. Và nếu họ là tỳ-khưu, là tỳ-khưu-ni thì chỉ là kẻ trộm tướng, là người ngu, là kẻ xấu ác tương đồng với thế gian thôi!

Ôi! Trí và ngu! Nội hàm ngữ nghĩa đích thực của nó, bây giờ, người đời thường cũng khó nhìn ra chân tướng, nhưng người trí hiền, kẻ học Phật chơn chính thì họ thấy ngay, biết ngay - dù là mũi tên lao đi, muốn giấu mình giữa đêm đen!

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2017(Xem: 2769)
Ta xin thắp ngọn đèn lên Đức Phật Chiếu vào lòng sáng cả nét thương yêu Cho thêm vui nguồn sống dưới nắng chiều Giữa cơn gió từ bi lan rộng mãi . Ta đã dứt từ bao năm tranh cải Để cho lòng nhẹ bớt cõi hơn thua Để lắng nghe trở lại tiếng chuông chùa Giữa đêm vắng bao mùa sương tuyết đổ .
07/02/2017(Xem: 11919)
Ơi dòng Hương hỡi dòng Hương Hiển linh mong chỉ hộ đường giúp ta Phải chăng thị hiện đó mà Mười phương là một – Một là mười phương Lê Sa Đà đã nói như thế, về quê hương mình. Sông Hương, núi Ngự là nơi chốn thi sỹ sinh ra đời, từ năm 1946. Suốt một thời thanh xuân rực rỡ, thở nồng nàn, mát rượi, dưới mái trường Quốc Học, chàng thi sỹ mơ màng, lãng đãng chạy theo những tà áo trắng như đàn bướm của các nàng nữ sinh Đồng Khánh bay lượn trong nắng vàng, lấp lánh long lanh… Từ cái đẹp sơ nguyên, thanh thoát đó, vô tình đã xui khiến chàng tuổi trẻ sớm cưu mang, hàm dưỡng và tựu thành một hồn thơ say đắm, đầy nhạy cảm giữa mười phương trời lữ thứ...
05/02/2017(Xem: 3581)
Lẽ thật cuộc đời vốn là không Chẳng có chi mô phải mất lòng Không ai gây khổ cho mình cả Mê muội đến từ thiếu hiểu thông .
13/01/2017(Xem: 5316)
Tổng thống Barack Obama phát biểu chia tay Nhà Trắng tại thành phố quê nhà Chicago vào tối ngày 10/1, tức sáng ngày 11/1 giờ Hà Nội. Dưới đây là nội dung bài phát biểu của ông: "Xin chào Chicago Thật vui khi trở về nhà. Cảm ơn tất cả mọi người. Michelle và tôi cảm thấy rất xúc động vì những lời chúc mà các bạn đã gửi tới chúng tôi trong hai tuần qua. Nhưng tối nay, đến lượt tôi nói lời cảm ơn. Dù chúng ta đã từng nhìn hòa thuận hay không hề đồng tình với nhau, những cuộc trao đổi giữa tôi với các bạn - người dân nước Mỹ, trong các phòng khách, nông trại, nhà máy, các bữa tiệc hay những tiền đồn quân sự xa xôi, đã giúp tôi trung thực, giúp tôi có nguồn cảm hứng và tiếp tục công việc. Mỗi ngày tôi đều học được từ các bạn.
07/01/2017(Xem: 3633)
Khi ngọn gió chớm đông thỉnh thoảng thổi qua những cụm rừng trong và ngoài thành phố, nhất là những vùng Bắc và Đông Bắc Mỹ, những chiếc lá diễm màu chín mộng cuối thu cũng đã lần lượt trở về cội xưa, tiếp theo qua những cơn gió hối hả, để lại cái cảnh cây đứng trơ cành khẳng khiu giữa bạt ngàn sương khói, tựa như những dãy san hô khổng lồ trên mặt đất, trên núi đồi, như báo hiệu mùa đông đang đến và rồi đã đến, còn có những cơn mưa cuối thu xối xả như dành một ít nước dinh dưỡng cho cây, cho cỏ, cho muôn hoa vào những tháng ngày giá băng tuyết phủ.
07/01/2017(Xem: 5418)
Tuệ Sĩ – Người gầy trên quê hương điêu tàn. Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng. Những hình dung từ tiêu biểu cho một con người như còn lãng vãng đâu đó, náu mình trong khói đá. Ẩn hiện trên khói sóng. Nhấp nhô trên những lượng nước bạc đầu của đại dương. Hiển hiện trên quê hương điêu tàn. Núp sâu trong lòng người khốn khó. Ngày cũng như đêm luôn có ở những nơi đó. Có như một linh hồn mục nát, đọa đày giữa muôn triệu linh hồn đau thương, gầy guộc. Luôn kêu gào thấu trời xanh, nhưng những kẻ quyền uy tham vọng ở nơi đó vẫn bịt tai, nhắm mắt như loài khỉ nhảy nhót trên cành cây vô lương tri. Như bầy thú hoang dẫm nát núi rừng nơi chúng ở. Một vì sao sáng ở phương đông để dẫn lối cho các vì sao lạc hướng. Cả bầu trời đen ngòm, thăm thẳm u minh, bao trùm muôn vật, gục đầu trong tuyệt vọng.
20/12/2016(Xem: 6938)
Lại thêm một mùa xuân về trên xứ người, nếu đếm trên đầu ngón tay sợ rằng phải cần thêm một bàn tay nữa mới đủ số. Vậy trong khoảng thời gian dài đằng đẳng ấy, người viết này đã làm gì cho đồng bào, “dân tộc“ đau khổ tại quê nhà. Hay lại chỉ mải lo chuyện “vinh thân phì da“ hưởng cuộc đời phước báu tại xứ sở được tạm gọi là “thiên đường“ này. Ấy! Các bạn không biết chứ! Chúng tôi, một “đạo quân tóc dài“ mới thành lập một nhóm lấy tên là “Văn bút đánh trâu“ (cấm nói lái), quy tụ những cây bút “lừng danh“ từ xưa đến giờ chỉ chuyên viết lưu bút ngày xanh hay chuyện tình diễm lệ cỡ Quỳnh Dao, sau viết cho báo Chùa nên đổi thành những bài tường thuật các khóa tu. Một lực lượng hùng hậu như thế mà chuyển hướng viết về đề tài Đánh Trâu thì nhất định sẽ bẻ gẫy sừng trâu phải không các bạn?
14/12/2016(Xem: 13143)
Bước vào thiên niên kỷ mới, trong mười năm của giai đoạn đầu tiên (2006-2016), Phật giáo đã khai dụng được nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối diện với lắm thách thức giữa một thế giới đầy biến động. ● Xin nhận diện một số cơ hội: Xu thế mà người dân trong hai lục địa Âu và Mỹ đón nhận Phật giáo vừa như một triết lý sống nhân bản, vừa như một khoa học trị liệu hiệu quả đã bước qua khỏi giai đoạn nghiên cứu kinh viện để lan tỏa ra trong nhiều lãnh vực ứng dụng thiết thực khác của đời sống. – Hiện tượng những tổ chức Phật giáo quốc gia đơn lẽ đang nhịp nhàng gia nhập vào các mạng lưới Phật giáo quốc tế đã trở nên chặt chẻ hơn. – Những công trình nghiên cứu và khảo sát kinh điển Phật pháp càng lúc càng nhiều và càng có phẩm chất nhờ ứng dụng công nghệ thông tin khi xử lý các văn bản. – Nghệ thuật và văn học Phật giáo được giới trí thức trên thế giới khám phá và xác nhận như một dòng chủ lưu đóng góp vào những giá trị nhân văn của nhân loại – …
03/12/2016(Xem: 10346)
Sau nhiều năm nghiên cứu Kinh Dịch bị nhận lầm là của Trung Hoa, tôi phát hiện Trung Thiên Đồ được ẩn dấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, mà đồ này đặc biệt lại là chìa khóa để viết Kinh Dịch, nếu giảng Kinh Dịch theo phương vị Hậu Thiên Đồ như cách làm của các Dịch học gia Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại thì sẽ khiến cho Quái từ, Hào từ trong kinh văn trở nên khó hiểu, rời rạc, đứt đoạn. Ngược lại nếu giảng theo phương vị Trung Thiên Đồ thì câu chữ hóa thành sáng sủa, mạch lạc, mỗi quẻ là một bản văn hoàn chỉnh, liên ý với nhau. Trung Thiên Đồ chính là chứng từ duy nhất để chứng minh Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam.
03/12/2016(Xem: 4024)
Tản mạn về năm Dậu - *rơ(ka) - gà (phần 14A) Nguyễn Cung Thông Phần này viết về năm con gà (Dậu), tiếp theo1 phần 14 "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Dậu - *rơ(ga) - gà (phần 14)", chú trọng đến các dạng khác nhau của danh từ gà cũng như tại sao loài gia cầm này giữ một vị trí đặc biệt trong 12 con giáp Á Châu. Các âm thanh của gia cầm rất quen thuộc với con người - từ ngàn năm qua - là tiếng chó sủa, tiếng gà gáy và mèo kêu meo meo ... Chỉ có tiếng gà gáy đã ghi lại nhiều dấu ấn trong văn hóa và ngôn ngữ vì có khả năng liên h
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]