Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và cuộc sống xã hội hiện đại

09/04/201312:28(Xem: 2621)
Phật giáo và cuộc sống xã hội hiện đại

 

PHẬT GIÁO VÀ CUỘC SỐNG
XÃ HỘI HIỆN ĐẠI

Tác giả : Hồng Tu Bình
Việt dịch : T.N. Nguyện Liên

---o0o---

 

Với thế kỷ mà xã hội đang tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa, việc chúng ta nghiên cứu văn hóa Phật giáo Trung Quốc là việc làm có ý nghĩa gì? Làm thế nào để sự nghiên cứu của chúng ta có lợi đối với cuộc sống hiện thực và kiến thiết nền văn hóa mới cho đất nước Trung Hoa? Tôi cho rằng trong sự tồn tại trường kỳ một hiện tượng văn hoá thì tự bản thân văn hóa ấy đaõ có tính tất nhiên, sâu xa của nó. Để cuộc sống xã hội và tinh thần nội tại của văn hóa tồn tại trong nhau thì điều kiện quan trọng nhất là chúng phải dựa vào nhau liên kết chặt chẽ với nhau. Như chúng ta thấy, văn hoùa Phật Giáo Trung Quốc tồn tại và kéo dài mãi đến mấy ngàn năm nay không những đã ảnh hưởng rộng rãi, sâu sắc đối với tư tưởng con người, đối với cuộc sống xã hội mà trên phương diện thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người nó cũng có một tác dụng rất quan trọng, là nhân tố tích cực có giá trị và ý nghĩa nhất định đối với cuộc sống và hiện thực xã hội.

Về bản chất, Phật Giáo được xem là Tôn Giáo theo đuổi tinh thần xuất thế, điều này có hoàn toàn không quan trọng đối với cuộc sống xã hội hiện thực không?

Lý luận xuất thế của Phật giáo đối với cuộc sống và xã hội nói chung phải chăng hoàn toàn không có ý nghĩa? Trả lời: không đúng như vậy, đứng trên nhiều phương diện để nhìn.

Đức Phật thấy được tâm tư của nhân sanh rồi sáng lập ra Phật Giáo, Ngài đưa ra một số lý luận cơ bản ï như giáo lý “Duyên Khởi”, “Vô ngã”v.v... đều có liên quan tới chủng tính của mọi tầng lớp. Những điều Ngài đưa ra đều nhắm vào đối tượng thần học của chế độ chủng tính nước Ấn Độ cổ đại, và đã thể hiện đầy đủ sự quan tâm đến cuộc sống hiện thực. Tinh thần chủ yếu của Phật Giáo là đứng dươùi góc độ giải thoát luận để đưa ra vấn đề, điều nhấn mạnh nhất là trong sự giải thoát người người đều bình đẳng, trong đóù tinh thần cơ bản vẫn là “Nhân bản”, do vậy bất luận trong thời gian nào, Ấn Độ cổ xưa hay nước Trung Quốc hiện đại đều là những việc có ý nghĩa tích cực.

Luận về nhân quả báo ứng, một trong những lý luận trọng điểm của giải thoát luận Phật Giáo cho thấy, luận này có 2 đặc điểm quan trọng:

Thứ nhất là nhấn mạnh nghiệp cảm và phủ định có quỷ thần chi phối hoặc thi hành việc thưởng lành, phạt ác ở bên ngoài.

Thứ hai nhấn mạnh việc tự làm tự chịu của nghiệp báo, phủ nhận khả năng thay thế người khác thọ nhận quả báo.

Từ ý nghĩa trên cho thấy, thuyết nghiệp báo luân hồi này cho rằng quyền chủ động vận mạng và cảnh ngộ của mỗi người chúng ta là do mình tự quyết , không giao phó trong tay của người nào khác, từ đó đã nảy sinh ra những xu hướng đạo đức thực tiễn trong cuộc sống như “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Lý tưởng giải thoát xuất thế của Phật giáo tuy căn cứ vào việc nhìn nhận cuộc sống là vô thường, khổ... để biểu đạt sự hướng vọng về theá giới cực lạc vượt qua biển khổ vĩnh viễn, thể hiện sự truy đuổi hạnh phúc vĩnh hằng trong cuộc sống. Việc này thông qua sự nỗ lực của tự thân, thực hiện lý luận nhân sinh tốt đẹp, trong đó hàm ý khuyên người hướng thiện, tinh thần tích cực tiến thủ và đương nhiên đối với cuộc sống và hiện thực xã hội đó là việc làm rất có ý nghĩa.

Mặt khác Phật giáo xem vô minh và tham dục là cội nguồn của sự thống khổ trong cuộc sống, khuyến tấn chúng ta đối với vạn vật đừng khởi tâm tham đắm, giữ gìn bổn tính thanh tịnh tự nhiên của con người, đừng bị lòng tham muốn vật chất ô nhiễm và lừa gạt, luôn giữ tâm trạng bình tĩnh và ôn hòa. Lý luận này có ý nghĩa rất sâu sắc đối với sự khắc phục hiện tượng lòng tham muốn vật chất trong xã hội hiện đại, vì với con người, mấy ai đã tự làm chủ và giới hạn được lòng tham của mình? Tuy nhiên lòng ham muốn hợp lý, chánh đáng cần phải được khẳng định và bảo vệ, nhưng cũng không được thái quá, vì thái quá sẽ hại mình hại người. Thường trụ trong tinh thần “không chấp trước” của Phật giáo để điều hòa và khống chế tâm lý nội tại hoặc cách hành xử bên ngoài, điều này cũng ích lợi đối với xã hội và nhơn sanh.

Ngoài ra, tinh thần xuất thế của Phật giáo, căn bản chính là hướng vọng về tinh thần siêu việt và thăng hóa, tinh thần này tuyệt đối hoàn toàn không bài xích tinh thần nhập thế. Đặc biệt là tinh thần bất nhị: thế gian và xuất thế gian, niết bàn và sanh tử của Phật giáo Đại thừa càng thể hiện rõ nét hơn. Về cơ bản, tinh thần xuất thếù không những đã nối liền quan hệ giưõa lý tưởng Phật giáo cùng cuộc sống thực tế làm cho Phật pháp thường trụ nhơn gian, thay đổi thế gian, thể hiện tính khế lý khế cơ, đồng thời kiến lập được Phật giáo nhân gian, cõi Phật nhân gian và tịnh độ nhân gian.

Hiện nay Phật giáo Trung Quốc đang kế thừa và phát triển Phật giáo với tinh thần Phật giáo nhân sinh, tức đang hướng đến con đường Phật giáo nhân gian. Vì vậy việc kết hợp cuộc sống xã hội hiện đại để nghiên cứu văn hóa Phật giáo là điều tất yếu và cũng là khả năng vốn có. Dựa vào nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc cũng thấy rõ điều này, vì tinh thần và đặc điểm cơ bản của văn hóa Trung Quốc chính là chú trọng vào cuộc sống hiện taïi và kiếp hiện tại.

Làm thế nào để nhận thức được tinh thần cơ bản và đặc điểm cơ bản của văn hóa Phật giáo Trung Quốc?

Người viết cho rằng Phật giáo Trung Quốc đã kế thừa tinh thần cơ bản của Đức Phật, người sáng lập ra Phật giáo, đồng thời với không khí văn hóa truyền thống, đã hình thành một tinh thần Phật giáo tươi sáng khác với tinh thần Phật giáo Ấn Độ, điều tiêu biểu nổi bật hơn nữa là tinh thần giáo lý của Phật giáo tại AÁn Độ đã hàm chứa tinh thần nhân bản, lấy con người và cuộc sống làm trung tâm. Từ đó khẳng định được sự tồn tại, làm cho Phật giáo hình thành, thậm chí ngày càng phát huy và phát triển. Văn hóa Phật giáo Trung Quốc sở dĩ cùng với Đạo giáo, Nho giáo truyền thống song song trở thành những bộ phận quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hóa tư tưởng truyền thống bởi vì trong một mức độ nhất định nào đó, Phật giáo đã bổ khuyết một số maët chưa đủ hoặc còn thiếu sót đáng tiếc của nền văn hóa tư tưởng truyền thống vốn có của Trung Quốc. Mặt khác, sự mâu thuẫn và dung hợp giữa Phật giáo cùng với Nho giáo, Đạo giáo ngày càng hướng đến cuộc sống con ngươøi, xã hội hiện thực, đúc kết thành phẩm cách mang tính hiện thực không thể tách rời. Nội dung giáo lý hàm ẩn đối với sự truy tìm hạnh phúc trong cuộc sống chính là con người trên mảnh đất Trung Quốc với cuộc sống xã hoäi hiện thực phải xem trọng sức lực và sinh mạng, có được tinh thần phát huy lớn mạnh hết sức mình.

Phật giáo hóa Trung Quốc đang thông qua sự kế thừa và phát triển tinh thần chủ nghĩa nhân văn của Phật giáo, ngày càng đến gần cuộc sống và xã hội hiện thực hơn. Khi nói đến quan điểm giải thoát cho tất cả chúng sanh và nhấn mạnh tinh thần thoát khỏi biển khổ của nhân sinh, Phật giáo Trung Quốc đang đề cao vấn đề nhân sanh và con người, trong đó tính đại biểu nổi bật nhất là Tôn phái Thiền tông, Phật giáo Thiền Trung Quốc đã khẳng định mạng sống chân thực của mỗi cá nhân, thể hiện trên cơ sở ý nghĩa và mạng sống nội tại hòa nhập vào sự giải thoát đối với cuộc sống hiện thực, thay đổi cách tu hành, cầu thành Phật giữa việc ăn cơm, mặc áo bình thường, nhấn mạnh tính tùy duyên, tùy vận mệnh, tức tâm tức Phật, cho rằng “tất cả tâm đều là Phật”, “tất cả Phật đều là con người”, người và Phật không khác nhau” (Trích “Ngũ Đăng Hội Nguyên” quyển III)

Trước từng bối cảnh lịch sử, Phật giáo trong giai đoạn phục hưng thời cận hiện đại, Phật giáo từ cuối đời Đường đến nay đã có khuynh hươùng nhập thế hóa, nhân sinh hóa. Tiến thêm bước nữa để kế thừa và phát triển, Thái Hư Đại sư đã mạnh mẽ đề xướng tinh thần Phật giáo nhân gian, tịnh độ nhân gian . Từ thập kỷ 60 trở lại đây, ở Hồng Kông, Đài Loan Phaät giáo hưng khởi vì luôn hướng về cuộc sống và xã hội, đúc kết nên một sự nghiệp văn hóa kiểu mới, và tại Trung Hoa đại lục trước mắt cũng đang đề xướng tư tưởng Phật giáo nhân gian, lấy tư tưởng tự lợi, lợi tha thực hiện tịnh độ nhơn gian, thể hiện tinh thần cơ bản của Phật giáo là xem trọng cuộc sống hiện tại ngay kiếp này. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã tồn tại 2000 năm, nay đã và đang tiếp tục hướng đến con đường phát triển mới, bắt đầu một tiến trình mới, là một điều chứng minh cho thấy tinh thần thiết thực và nhân bản của Phật giáo.


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2016(Xem: 2999)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
10/05/2016(Xem: 16075)
Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó
23/04/2016(Xem: 11098)
Các giới văn học Việt Nam xưa nay, thường nói : “Là thi sĩ, ai cũng có tâm hồn rất lãng mạn, đa tình trước trăng, sao, núi non, sông, hồ, suối reo, biển cả, trời xanh, đồng nội cò bay, sắc hương nữ nhân và ưa ru với gió, mơ theo trăng và lơ lững cùng mây . . .”.
21/04/2016(Xem: 18282)
Tôi đã đọc trên internet một bài viết rằng nhiều đọc giả nói tác giả của bài thơ “Mất Mẹ” được trích dẩn trong cuốn truyện rất nổi tiếng “Bông Hồng Cài Áo” là của chính tác giả Nhất Hạnh. Lại có bài viết rằng nhiều người đã nghe trong chương trình phát thanh cũng nói tác giả bài thơ “Mất Mẹ” là của Thích Nhất Hạnh.
08/04/2016(Xem: 18680)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 53, tháng 04 năm 2016, Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh.
05/04/2016(Xem: 7281)
Với những bậc cha mẹ Việt sống tại hải ngoại, được nghe con nói tiếng mẹ đẻ là hạnh phúc lớn lao, đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ. Làm thế nào để gieo cho con tình yêu tiếng Việt là câu hỏi lớn với những người làm giáo dục.
26/03/2016(Xem: 4902)
Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh. Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình. Đừng nghĩ suông rằng cuộc sống mong manh vô thường, khi chúng ta chưa thực sự mở lòng thương yêu, cảm thông, đón nhận quan điểm và lẽ sống của người khác.
10/03/2016(Xem: 10541)
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lạ i- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trôi chảy (nói) và thuận tai (nghe).
10/03/2016(Xem: 10082)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10116)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]