Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Việt và tiếng Ngoại quốc

01/07/201513:04(Xem: 3504)
Tiếng Việt và tiếng Ngoại quốc

nguyen hanh
Tiếng Việt và tiếng Ngoại quốc

  Ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc. Ngôn ngữ còn thì dân tộc còn. Dù có vì ngoại cảnh, vì sinh kế hay vì lý do gì đi nữa mà ta không thể ở lại trong nước, phải ra ngoại quốc. Điều trước tiên, muốn giữ được văn hóa nước nhà không bị văn hóa nước ngoài chi phối, chúng ta phải cố giữ ngôn ngữ mẹ đẻ lưu truyền từ ông cha cho đến con cháu và mãi mãi về sau!

Lịch sử đã cho chúng ta thấy Chiêm Thành xưa kia là một dân tộc anh hùng, có văn hoá, có phong tục tập quán, có ngôn ngữ riêng; thế mà chỉ sau một thời gian đất nước bị ông cha ta chiếm đóng, dân tộc Chiêm đã bị đồng hoá và không còn có tên trên bản đồ thế giới nữa! Đó là một tấm gương khiến cho chúng ta khi nhìn lại phải giật mình kinh sợ!

Chúng ta, những người dân Việt, hiện sống phân tán khắp năm châu, đang lâm vào tình trạng khó khăn về ngôn ngữ đối với những người lớn tuổi.  

Qua lịch sử Việt Nam, chúng ta không khỏi hãnh diện về tiền nhân của chúng ta. Suốt một ngàn năm bị bắc phương đô hộ, không lúc nào những ngoại nhân này không tìm cách đồng hóa người dân Việt. Từ phong tục, tập quán cho đến chữ viết, họ đều bắt dân ta phải làm theo họ: nào là buộc dân chúng phải học chữ Hán, bím tóc, đưa các lễ nghi Trung hoa vào đời sống người dân Việt. Chúng ta cũng không chối cãi là nhờ đó mà chúng ta có những phong tục tập quán tốt mà hiện tại chúng ta vẫn còn duy trì như lễ Tết Nguyên đán, đám cưới, đám hỏi, ma chay, thờ cúng tổ tiên v.v... Đó cũng là điều tốt đẹp, biết áp dụng một cách khôn ngoan, biến những phong tục tập quán tốt của người thành những phong tục tập quán có tính cách riêng biệt Việt Nam. Trong khi đó ngôn ngữ Việt Nam không hề bị mất mà còn trở nên càng ngày càng phong phú nhờ những từ ngữ Trung hoa được Việt hóa. Rồi nhờ đó, vào đời vua Quang Trung đã xuất hiện chữ Nôm làm thành chữ viết của Việt Nam.

Sau 80 năm đô hộ của Pháp, người Pháp cũng đã dùng đủ mọi cách để đồng hóa người Việt như cách ăn mặc, mở trường dạy chữ Pháp với danh nghĩa là để mở mang dân trí ... nhưng thực ra ở nhà trường không một lớp nào dạy sử Việt Nam cho đám trẻ Việt. Mỗi tuần chỉ có 2 giờ Việt ngữ: một giờ tập đọc, một giờ tập viết. Tuy nhiên với truyền thống sẵn có, người Việt lúc đó tuy vẫn học tiếng Pháp, vẫn làm việc với Pháp song lúc nào cũng nói tiếng Việt. Ngôn ngữ càng ngày càng phong phú thêm nhờ Việt hoá các danh từ thông dụng của Pháp như xà phòng (Savon), nhà ga (gare), đi lãnh măng đa (mandat) v.v...

Như vậy chúng ta thấy qua bao lần bị đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn còn giữ được ngôn ngữ Việt và còn rút tỉa những điểm hay, tốt của người để làm giàu cho văn hóa ta. Dĩ nhiên, cũng có nhiều thói hư tật xấu của nước ngoài du nhập vào nước ta, song không phải ai ai cũng bắt chước.

Chúng ta cũng không quên ơn ông Bá đa Lộc (Alexandre de Rhodes), một tu sĩ Pháp đã La mã hóa tiếng Việt và nhờ đó Việt Nam ta đã có một ngôn ngữ và có lối viết riêng biệt rất dễ học. Điều này đã làm ngạc nhiên không ít khi những người Đức thấy chữ viết của chúng ta, bởi vì họ cứ nghĩ rằng chúng ta viết giống như chữ viết của Trung hoa chẳng hạn.

Trở lại vấn đề người Việt (tỵ nạn hay không tỵ nạn) hiện ở tại nước ngoài thì sao?

Tôi nhận thấy một số phụ huynh đã đặt cho con em một cái tên Đức với lý do là như vậy, lúc đi học con em sẽ có một cái tên dễ gọi, dễ đọc, dễ nhớ. Tôi thì không nghĩ như vậy, bằng cớ là tôi cũng đi làm, bạn bè, con cháu tôi cũng đi làm, các bạn đồng nghiệp Đức vẫn gọi tên chúng tôi khá đúng. Tuy nhiên việc có tên gọi bằng tiếng Đức không là điều quan trọng bằng vấn đề ngôn ngữ.

Chúng ta không thể một sớm một chiều có thể nói giỏi ngay, hiểu được hoặc viết được ngay một ngôn ngữ mà phải hằng ngày học hỏi, luyện tập rất nhiều. Có người lại nghĩ rằng phải nói tiếng Đức với con em tại nhà, sợ lúc vào trường chúng không biết tiếng Đức sẽ khó khăn cho chúng hội nhập vào môi trường mới nên quý vị đã nói chuyện với con em bằng tiếng Đức.

Tôi thì không nghĩ như vậy. Chúng ta có ai tự cho mình nói tiếng Đức 100% như người Đức mà không có accent? Dù cho có giỏi ngoại ngữ bao nhiêu đi nữa, chúng ta ít ra cũng có 20% hay 30% accent tiếng Việt; vậy thì tại sao chúng ta lại tập cho con em chúng ta nói tiếng ngoại quốc với khiếm khuyết đó?

Chúng ta không sợ con em mình không nói được tiếng nước ngoài mà chỉ sợ chúng không nói được tiếng mẹ đẻ mà thôi bởi vì với trẻ con chỉ cần 5, 7 tháng đến trường là chúng nói giỏi thứ ngoại ngữ đó rồi vì con nít đầu óc nó như tờ giấy trắng, hiểu biết mau và hội nhập vào dòng chính cũng mau hơn chúng ta nhiều.

Tôi không dám phủ nhận là có nhiều bậc phụ huynh cũng cố gắng nói chuyện với con em bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, quý vị cũng gặp phải khó khăn không ít. Công việc đa đoan, ngoài giờ làm việc tại hãng xưởng, công sở, còn phải lo công việc nhà cửa nên không có được bao nhiêu thì giờ rảnh rỗi dành cho con em. Biết vậy, song nếu chúng ta có thể để ra ít nửa 30' hay 45' để sống thật với gia đình vào buổi tối. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ có một khoảng thời gian sống thoải mái, thân mật với gia đình, làm dịu đi những lo âu phiền muộn thường gặp trong cuộc sống xô bồ tại các nước văn minh này.

Đây chỉ là ý kiến thô thiển của riêng tôi, chắc nhiều vị phụ huynh còn có nhiều ý kiến dồi dào phong phú hơn. Mong rằng chúng ta cần suy nghĩ để tìm được một giải pháp thích ứng cho những kẻ tha hương nhưng không quên cội nguồn.

Chúng ta người Việt Nam, tuy đất nước không bị ngoại nhân xâm chiếm song cùng chung thân phận tỵ nạn như người dân Tây Tạng. Vì không muốn để mất linh hồn nên đức Đạt Lai Lạt Ma đã liều thoát ra nước ngoài và đã lập một chính phủ lưu vong tại Dharamsala ở Ấn độ. Đời sống của người dân Tây Tạng tại đây rất khó khăn,  nghèo khổ song họ vẫn can đảm chịu đựng mong chờ một ngày nào đó sẽ dành lại được quê hương xứ sở thân yêu của mình.

Chúng ta may mắn hơn, được sống trong những nước tự do đầy nhân bản, được giữ tròn tín ngưỡng của mình, có một đời sống tương đối thoải mái hơn người dân Tây Tạng nhiều.

Tại sao chúng ta không nghĩ:

"Ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc; làm sao dân tộc có thể tồn tại nếu linh hồn bị mất đi?"

Tôi nghĩ chúng ta chẳng ai muốn làm thân lưu lạc, làm thân tầm gởi tại xứ người mãi đâu! Một bóng dừa xanh mát, một con trâu đang gặm cỏ trên cánh đồng trong buổi chiều tà cũng đủ làm ta xúc động nhớ về cố quốc! Dù sống cuộc đời lưu vong nhưng lòng vẫn luôn luôn hướng về quê nhà, luôn luôn mang tâm trạng xót xa của kẻ ra đi. Cho dù có giỏi tiếng Đức bao nhiêu đi nữa, khi ngồi nói chuyện với một người Đức vẫn không cảm thấy thoải mái như khi ngồi với một người bạn đồng hương, chúng ta có thể hàn huyên tâm sự với nhau từ giờ này qua giờ khác mà không thấy chán. Giống như khi người ta đi lâu dài trên đường thiên lý, khi bóng chiều đã chập chùng buông xuống trong một không gian dần dần quạnh quẽ, ta cũng cần có những cái mốc để vỗ về bước chân ta trở về./.

 

          Nguyên Hạnh HTD

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2018(Xem: 3041)
Lá và cành khô đã gẫy đổ, giạt theo mặt hồ từ những ngày tàn xuân. Một số cành khác đã mục rữa từ dưới nước, nhưng vẫn gắng bám rễ nơi sình lầy, đong đưa những chiếc lá khô teo rúm cho đến khi thực sự bật gốc. Rồi một ngày, hai ngày, rồi nhiều ngày qua đi... khi nắng hạ oi ả nóng bức bắt đầu thiêu đốt những lá khô sót lại cuối mùa, những chồi xanh mơn mởn của lá sen vươn lên; từng lá, từng lá, mở ra tròn đầy, mạnh mẽ như thể đang chuẩn bị bảo vệ, chào đón sự xuất hiện phát tiết của những cành hoa. Và khi lá đủ lớn, màu trở nên xanh thẫm hơn, thì những nụ sen cũng vừa trồi khỏi mặt nước, đong đưa theo làn gió nhẹ trưa hè.
10/04/2018(Xem: 3622)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
01/04/2018(Xem: 15929)
Chánh Pháp, số 77, tháng 4.2018, ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ XUÂN ĐẾN VUI GÌ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ KHI GIỮA ĐỜI THƯỜNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 12 ¨ BẢN TÍNH CON NGƯỜI VỐN VỊ KỶ HAY VỊ THA? (Nguyên Hạnh dịch), trang 13 ¨ THƯ CUNG THỈNH CHỨNG MINH/THAM DỰ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2562 (TK. Thích Pháp Tánh), trang 15 ¨ HOÀI NIỆM HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ (Quách Tấn), trang 16 ¨ CÔ ĐỘC HÀNH, HOÀI HƯƠNG (thơ Phù Du), trang 18 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG, t.t. (Tuệ Uyển dịch), trang 19 ¨ KHÓC TỐ NHƯ (thơ Diệu Viên), trang 22 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU: NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ THỦY VIÊN TỊCH (Tổng vụ Ni Bộ), trang 23 ¨ TƯỞNG NIỆM NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ THỦY (TN Như Đức), trang 24 ¨ NHỮNG BÀI HỌC TỪ CÁCH ỨNG XỬ (TN. Như Bảo), trang 26 ¨ MỘT VẦNG TRĂNG (thơ Vĩnh Hảo), trang 27 ¨ VEN. SANGHARAKSHITA (1925 -)
25/03/2018(Xem: 4238)
Khi dòng sông phút trước không còn là dòng sông phút sau, thì đời người phút trước cũng không giống đời người phút sau. Theo dòng thời gian, mọi thứ trôi qua còn nhanh hơn thế nữa. Nhưng thời gian có không, trong sự dịch chuyển của đơn vị vật chất nhỏ nhất (neutron, proton, quantum, photon...)? Một phần triệu giây, hoặc ngắn hơn! Có đơn vị thời gian nhỏ nhất hay không? Có tên gọi cho một khoảnh thời gian quá nhỏ nhiệm như thế không? Thời gian, đối với lý thuyết vật lý hiện đại, chỉ còn là một khái niệm, dường như có, dường như không, hoặc không hề tồn tại, hoặc tồn tại như một ảo tưởng, ảo giác từ tâm thức, hoặc như là một mộng ảo từ sự sinh diệt của một lượng tử, một hạt ‘ánh sáng’ hay ‘sóng’ mơ hồ tức-hữu tức-vô. Long Thọ (1) từ thế kỷ thứ hai chẳng đã từng nói là không làm gì có thời gian hay sao! (2) Vì thời gian do nơi vật thể mà có; mà vật thể như photon (hạt căn bản—elementary particle) còn không thể nói là có hiện hữu như là một “vật” thì thời gian làm gì hiện hữu? (3)
24/03/2018(Xem: 3964)
Nghe, lắng nghe, và không nghe khác nhau ở điểm nào? Nghe. Dĩ nhiên là bằng đôi tai rồi. Nhĩ căn tiếp nhận, giao lưu với Thanh trần. Nhưng có kiểu nghe mà không nghe. Âm thanh vẫn chảy vào, chui vào, tấn công vào hai bên màng nhĩ, mình cảm nhận được là mình đang có nghe, nhưng mình chỉ biết là có nghe vậy thôi, chứ không rõ là mình đang nghe cái chi chi, cái gì gì. Nhà thiền có một công phu, thôi, gọi là phương pháp cho dễ hiểu, là phương pháp mở rộng hết, mở toang ra cả lục căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý) để đón nhận lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) trong cùng một lúc.
16/03/2018(Xem: 15958)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 14967)
Cùng là một tảng đá, một nửa làm thành tượng Phật, một nửa làm thành bậc thang. Bậc thang không phục hỏi tượng Phật rằng: - Chúng ta vốn dĩ cùng là đá, tại sao người ta chà đạp tôi, nhưng lại sùng bái người?! Tượng Phật trả lời: - Vì người chỉ chịu 4 nhát dao đã có được hình hài đó, còn ta lại trải qua trăm ngàn ngọn dao đục đẽo, đau đớn muôn vàn. Lúc đó bậc thang im lặng... Cuộc đời con người cũng thế: Chịu được hành hạ, Chịu được cô đơn,Gánh được trách nhiệm, Vác được sứ mệnh, Thì cuộc đời mới có giá trị...
12/03/2018(Xem: 7086)
Tắt máy. Xuống xe, Mỉm cười. Bình yên. Dạ thưa, con đã đi, mới vừa thượng sơn, và con đã đến. Lạy Phật. Lạy Pháp. Lạy Tăng. Những bước chân khẽ khàng, nhẹ bổng của con đi trên đất, qua sân chùa, theo Thầy từng bậc cấp lên gác chuông, đều cảm nhận được nguồn năng lượng của an lạc.
10/03/2018(Xem: 3991)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - sinh thì là chết?, Các phần trước của loạt bài "Sinh thì là chết?" (11.1, 11.2 và 11.3) đã ghi nhận khả năng liên hệ sinh 生 trong sinh thì với cách đọc Hán Việt thăng[2] 升 và phương ngữ ở phía Nam Trung Quốc (TQ) qua dạng sing/seng (shēng bình thanh, giọng BK bây giờ), hay là một cách dùng nhầm của tiếng Việt[3] (so với nghĩa sinh thì/sinh thời trong tiếng Việt hiện đại). Phần này bàn về khả năng sinh thì là kết quả thể hiện qua ngôn ngữ từ tư duy tổng hợp của người VN: kết hợp lòng tin Công giáo với truyền thống tôn trọng người đã ‘qua đời’ qua uyển ngữ Hán Việt (HV). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn
03/03/2018(Xem: 18901)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]