Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếc Thương

01/06/201520:09(Xem: 2992)
Tiếc Thương

 nguyen hanh


Tiếc Thương

 

 

      Kim Tiếng thương mến,

 

      Vẫn biết rằng "Đời là vô thường". Nhưng mình vẫn bàng hoàng xúc động khi hay tin Kim Tiếng đã ra đi. Chỉ trong vòng có hai ngày mà trường Sương Nguyệt Anh thân yêu của chúng ta đã mất đi hai Thầy Cô:

 

     - Cô Dương Kim Tiếng:   5-5-2015

     - Thầy Giáp Bằng Phan:   6-5-2015

 

      Đã đành rằng sự ra đi này là con đường giải thoát tốt, tránh khỏi những đớn đau vật vã nhất, nhưng mình cũng như đại gia đình Sương Nguyệt Anh vẫn vô cùng đau xót, vẫn là một mất mát lớn lao của một đời người.

      Trường Sương Nguyệt Anh của chúng ta là một trường Tổng hợp đầu tiên tại Sàigòn, ngoài các môn học như các trường Phổ thông khác, trường còn có thêm các môn nhiệm ý như doanh thương, kinh tế gia đình (nấu ăn, may vá, làm hoa vải), hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, võ thuật. Ngoài ra còn có phòng thính thị trang bị đầy đủ máy móc. Có phòng thí nghiệm để học sinh thực tập Lý Hóa, mổ xẻ sinh vật. Kinh phí được tài trợ từ cơ quan Usaid và hội phụ huynh học sinh.

     Năm 1973, Bà Hiệu trưởng Kim Chi phải qua Pháp theo chồng, Kim Tiếng đã lên thay. Cô Kim Tiếng người Gò Công, du học Mỹ năm 1960. Một con người đơn giản, không cầu kỳ, đằm thắm; đến với đồng nghiệp, với học trò bằng tất cả tình yêu thương, ân cần chăm sóc.

     Ngày đó thật là vui. Chúng ta đã đến với nhau bằng tất cả tình bạn chân thành, gắn bó với nhau trong những sinh hoạt của trường; những lần tổ chức văn nghệ, ủy lạo thương binh, vui buồn đều có nhau.

     Rồi cơn lốc 30-4-1975 đã làm cho chúng mình lao đao lận đận! Cái thời mà chúng mình phải đi học tập chính trị mỗi lúc hè đến tuy rất bất mãn nhưng cuối cùng lại thấy vui; mấy ông báo cáo viên tha hồ nói dóc, còn tụi mình ở dưới này tha hồ tán gẫu đủ mọi thứ!

      Bây giờ ngồi ngẫm lại thời đó, mình thấy tụi mình bị "bóc lột quá sức". Nhất là những bạn có chồng đi học tập cải tạo, cứ lăn xả ra làm việc như trâu để mong được chứng nhận công tác tốt, hầu mong chồng được thả về sớm. Sau này mới biết tất cả chỉ là những chiêu bài  gạt gẫm đàn bà, con nít. Với chiêu bài "Lao động là vinh quang", thầy trò vác chổi đi quét đường, hốt rác để làm sạch đường phố. Rồi ban lao động nhà trường lại có thêm sáng kiến "nuôi heo" để tăng thu nhập cho trường; bắt các Thầy Cô phải luân phiên nhau tắm rửa cho nó. Buổi sáng đi dạy, buổi chiều vô trường tắm heo, cho heo ăn. Mình nhớ có một lần vì không "chuyên nghiệp" nên khi tắm heo xong, nó hứng chí chạy xổng ra ngoài, phải vội vàng đuổi theo vì lỡ nó chạy mất, tiền đâu mà đền. Hình ảnh các Thầy Cô đuổi theo con heo, la hét om sòm quanh sân trường, tạo nên một cảnh tượng cười ra nước mắt!  Nhìn lại mình, trời ơi, sao mà thảm não vô cùng! Quần ống cao ống thấp, áo thì chỗ ướt chỗ khô, mặt thì phờ phạc vì đuổi theo nó mệt quá!

      Ngày trước đến trường đi dạy, lúc nào các cô cũng tươm tất lịch sự trong những chiếc áo dài tha thướt. Cách mạng vô, áo trắng quần đen là chủ yếu, giống như đồng phục của những đứa trẻ mồ côi trong viện Dục Anh, trông thật thảm hại!

     Đúng như khẩu hiệu "Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm",  nên buổi sáng đi dạy, buổi chiều đi lao động, buổi tối đi dạy bổ túc văn hóa rồi còn phải đi trực đêm ở trường để giữ an ninh. Mà tụi mình lại vốn nhát gan, sợ ma, sợ bóng tối, giữ nổi gì, đến trường là bật đèn sáng suốt đêm, chui vào văn phòng đóng chặt cửa lại, ăn trộm có vào gỡ hết gạch ngói cũng không hề hay biết.

      Những chuyện vui buồn đó làm sao chúng ta quên được, có một điều đáng quí là tụi mình vẫn biết đùm bọc, yêu thương nhau khắn khít. Còn nhớ những buổi chiều Kim Tiếng đạp xe tới mình, chia cho nhau từng củ khoai, khúc sắn. Một thời gian khổ, mình đã cùng sống, cùng chia sớt với nhau những cảnh xếp hàng cả ngày (XHCN) để mua từng kilo gạo đầy sạn về ăn độn với bobo, từng miếng thịt hôi, từng con cá ươn... Thầy cô đi dạy về, trên xe đạp tòn ten xâu thịt, mớ rau, trông thật tội nghiệp:

 

                “Xưa sao phong gấm rũ là,

 Giờ sao tan tác như hoa giữa đường!“

  ( Nguyễn Du )

 

      Sau 75, cái thời mà người ta phải nhắm mắt lăn đời mình qua những thương đau, vất vả khó nhọc, nhưng cũng có lúc ấm áp tình người khi học trò nhìn cô giáo với ánh mắt cảm thông, khi bạn bè đồng nghiệp giúi cho nhau từng gói đậu nhỏ để thêm một chút lương thực vào hành trang ngày mai đi thăm chồng cải tạo. Đúng là những tình cảm thiết tha, trong sáng vẫn còn hoài trong mỗi chúng ta!

 Sau đó bọn mình may mắn đã thoát được, đến miền đất Tự do nhưng mỗi lần nhìn về cố quốc, vẫn thấy lòng xót xa ngậm ngùi vô cùng!

      Ngày mình bay qua Virgina thăm Kim Tiếng thật quá vui mừng và cảm động. Chúng mình đã có những ngày họp mặt thầy trò Sương Nguyệt Anh vô cùng đầm ấm, những ngày xa xưa như được sống lại! Rồi Kim Tiếng và anh Dương Tư Thông đưa mình đi thăm Luray Cavern, một hang động thạch nhũ quá đẹp làm mình ngẩn ngơ nhìn ngắm mà muốn quên đường về!

  Tuy nhiên, dù đang sống an bình trên xứ người nhưng trong tim mỗi người tha phương Việt Nam đều ấp ủ một chút gì đó "Tình tự Dân tộc" như lời một bài hát:

 

  "Đàn chim tha phương, lạc loài đôi cánh mỏng, mong ngày trở về cố hương..."

 

 Chúng ta vẫn hy vọng một ngày nào đó, khi quê hương thanh bìnhmở hội, mình sẽ cùng về gặp gỡ học trò, bạn bè, không phải một nơi nào trên xứ người nữa mà ở ngay trường xưa chốn cũ, ngôi trường Sương Nguyệt Anh- đường Hòa Hảo- mà lời nhạc của Lê Tín Hương như một tiếng than dài:

    "Có ai biết ngày này ta nơi đây! Một nơi không định đến! Một chốn ta phải về!"

     Phải về! Nhưng mà Kim Tiếngvà Thầy Phanđã thực sự bỏ cuộc đời rồi, bỏ lại gia đình, bỏ đồng nghiệp, bạn bè cũ ngày xưa:

 

    "Một đời cây có mấy lần chia lìa cành lá sầu rơi, một đời mưa có mấy lần xa rời làn mây bên trời, có mấy lần rơi lệ đưa tiễn người xa đời, giọt vơi rồi giọt đầy!"

  ( Ngày rời )

 

    Bây giờ Kim Tiếng và thầy Bằng Phanđã mãn phần, thoát khỏi mọihệ lụy trong cõi đời phù du; một màu tang trắng

phủ, nước mắt nào đong đầy, cho nỗi đau tìnhngười còn ở lại!

Kim Tiếng vẫn luôn luôn có một chỗ thật đẹp trong lòng mọi người; thôi thì ở một nơi chốn nào đó, Kim Tiếng "hãy thật sự bình thản"; ở đây ban bè và học trò sẽ cầu nguyện cho Kim Tiếng cũng như Thầy Bằng Phan được về chốn an bình. Khắp nơi đều có tổ chức lễ cầu siêu cho Kim Tiếng và Thầy Phan: Cali, Úc, VN, Paris, Canada, Đức... để cùng hướng lòng cầu xin cho hương linh người ra đi được thêm ấm áp tình thương mến và để gia đình Cô Thầy được an ủi trong nỗi mất mát lớn lao này! Vậy Kim Tiếng và Thầy Phan hãy mỉm cười nơi chín suối.

Tuy đã ra đi nhưng tình thương Kim Tiếng vẫn để lại cho đời, đúng là "Chỉ có tình thương để lại đời" sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa nhưng ân tình mọi người vẫn còn trân trọng giữ lấy trong tim!

Thôi thế cũng xong một đời phiền muộn, tiễn đưa nào mà không buồn, huống chi đây là một cuộc chia xa vĩnh viễn lại càng đau lòng biết mấy!

     Chết là bắt đầu cho một cuộc viễn hành ở thế giới khác, thôi thì cứ tin như vậy và trong giờ phút này nén hương lòng thắp sáng, xin cầu nguyện hương linh Kim Tiếng và Thầy Bằng Phan kể từ đây rũ sạch nợđời, dù những cái nợ thật dễ thương - nợ tia nắng mai, nợ nụ cười ai đó để cõi Vĩnh hằng thong dong tự tại - Thế giới của yêu thương, của bao dung, của kỳ hoa dị thảo, của những gì thoát tục…

 

Ta nợ mặt trời từng tia nắng mai

Ta nợ nụ cười người quen sáng nay

  Nghe lòng nhẹ nhàng, bước chân phong trần.!!

   ( Vẫn nợ cuộc đời )

      Thôi xin trả nợ từ đây...

 

München, tháng 5/ 2015

Nguyên Hạnh HTD

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6322)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7674)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3556)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3512)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11230)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3967)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3447)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10801)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6814)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12401)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]