Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư gửi bạn

07/12/201111:04(Xem: 3080)
Thư gửi bạn

thu goi banThư gửi bạn

 

 

Riêng gửi anh N.K.Thiệu

Nha Trang

Anh T. thân mến,

 

Tôi có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những tấm chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho tôi. Lá thư của anh vẫn gây cho tôi nhiều bâng khuâng, xúc động và ngậm ngùi nhất!

 

Anh đã viết: …“Buồn chứ không vui như vóc dáng bề ngoài của Chị. Câu chuyện Chị kể về thời gian thăm nuôi chồng con, tôi xúc động quá; nghĩ đến là xót xa và bái phục! Nhớ lại Mẹ tôi ngày xưa, năm 1971 tôi có viết một bài đăng báo Sài gòn để ca tụng đức hy sinh tần tảo của mẹ Việt Nam. Tưởng vậy là nói lên được cái phi thường và âm thầm của Mẹ. Nay những gì Chị đã trải qua, xắn cao quần lội qua ruộng lầy, vào chỗ hoang vu chưa có mấy chân người, bao nhiêu gian nan nhọc nhằn mà cũng mạo hiểm, chỉ để đem cho chồng cho con chút ít lương thực, đồ dùng lặt vặt, sức đâu mà mang nhiều cho nổi! Thế thì tại sao Chị không nản lòng quay về mà chịu đủ mọi thứ rắc rối, có khi phải xuống nước năn nỉ nhưng người không đáng cho mình phải chiều chuộng, có đôi chút nhục nhã nữa, cũng chỉ lo cho chồng cho con chút ít quà cáp. Thân gái dặm trường, chỗ sơn lâm cùng cốc, đói khát muỗi mòng, phơi nắng phơi sương, đặt lưng nằm trên đất bầm dập ê chề!

 

Rồi những tháng ngày bươn chải, buôn bán lăn lóc ở chợ trời, đứng dựa lưng vài hè phố, hy vọng kiếm chút hoa hồng chênh lệch. Toàn là những công việc, những đoạn đường mà từ thời thơ ấu cho tới lúc trưởng thành, Chị không nghĩ mình có thể làm. Bố Mẹ cho con đi học, cũng chưa hề dự liệu một ngày nào đó, con gái mình suốt ngày ngoài đường, ngoài phố, chỗ đứng chỗ ngồi, chỗ ăn giường ngủ đều không có gì ra cái gì. Thế mà Chị đã trải qua, đã từng làm và làm giỏi.

Nay Chị lại về quê, biết là tốn công sức, tốn kém tiền bạc, đi thăm hết bạn bè, bà con làng nước và biết thế nào bà con sẽ réo gọi mà vẫn cứ đi, vẫn cứ đến. Điều gì khiến Chị làm như thế? Phải chăng đó là cái tâm, cái lòng, nói như cụ Trần Trọng Kim là “thiên lương” của con người.

Bà mẹ Suốt chèo đò đưa người qua sông ở Quảng Bình, có đưa bộ đội cũng là khách qua đò được Tô Hữu làm thơ ca tụng. Bây giờ Quảng Bình định bỏ ra mây tỷ để dựng tượng cho Bà, nhưng so với những gì Chị đã làm, đã sống...thì có gì thua đâu?

 

Tôi biết Chị qua bạn bè, qua bà con bên nhà vợ, nay gặp lại Chị qua hai lần uống cà phê, một bữa cơm chung và nghe Chị nói chuyện, vậy mà Chị đã là một bức tượng trong tư tưởng, trong ý nghĩ của tôi.

 

Một phút hào hứng hoặc may rủi nào đó, bắn hạ một tên địch hay nhiều tên địch được phong là anh hùng. Còn những việc Chị làm không lẫy lừng nhưng âm thầm và quyết liệt, dũng khí và dũng tâm đã thay đổi biết bao số phận của người thân, của gia đình. Thế gọi Chị là gì? Tôi gọi Chị là anh hùng và trong tôi còn lưu lại hình ảnh Chị đầy vui vẻ, lạc quan, duyên dáng và quyết liệt như một anh hùng với đầy đủ ý nghĩa của từ này...”

 

Anh T. thân mến,

Tôi vô cùng cảm động với những lời khen tặng quá ư nồng nhiệt của anh nhưng tôi không dám nhận mình là anh hùng đâu. Quanh tôi còn biết bao nhiêu người đã hy sinh, đã khổ cực và đau thương hơn tôi gấp ngàn lẩn, dù rằng 14 năm ở lại, đời tôi cũng đã quá lăn lóc gian truân. Tôi cũng không ngờ là đã liều lĩnh dám đứng ra đứng chợ trời sau khi làm cô giáo - cái nghề bắt buộc phải gương mẫu để có tiền nuôi chồng con, giúp con cái vượt biên lập lại cuộc đời. Tôi đã dám vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường để tìm những phương thức thành công mới trong hoàn cảnh mới để sống còn và hy vọng sẽ bước tới một tương lai sáng sủa hơn.

 

Có những lúc tưởng chừng phải buông xuôi ngã gục nhưng nghĩ đến gia đình, đến các con, tôi phải gượng đứng dậy để đưa các con tôi ra khỏi bờ vực thẳm đen tối đó.

Tôi còn nhớ tôi bị bắt vào đêm 30 tết trong khi đi thăm nuôi con đang bị giam giữ vì tội vượt biên. Mỗi lần muốn đi phải ra công an phường xin giấy phép nhưng tôi đâu có dám nên đành phải đi chui mà thôi. Lần đó nước bị rút cạn, đò không chạy được nữa đành phải neo lại chờ con nước lên mới tiếp tục cuộc hành trình. Đêm đã khuya rồi mà đường đi vào trại còn quá xa, chúng tôi đã bị du kích bắt vì hỏi giấy không ai có. Cả đò bị giam giữ, lùa vào sân cỏ trước đồn ngồi đó chờ sáng mai mới giải quyết.

 

Thế là trong lúc thiên hạ chuẩn bị đón giao thừa trong tiếng pháo, trong không khí rộn ràng của mái ấm gia đình, chúng tôi thì nằm la liệt giữa sân, ngắm đất trời vu vơ chứ biết làm gì hơn. Ngủ đâu có được với đàn muỗi vo ve như ong vỡ tổ. Đêm càng khuya, sương xuống càng thâm lạnh, nằm co ro úp chiếc nón lên người để tìm chút hơi ấm mong manh nhưng cũng chẳng khá gì hơn. Chính những lúc như vậy, mới thấy thấm thía chua xót cho thân phận mình. Dù không muốn khóc mà nước mắt cứ ứa ra. Cuộc đời tôi so với các bạn cùng lứa không được suông sẻ may mắn. Mẹ tôi mất khi tôi mới lên một tuổi nên tôi luôn mang cảm giác chơ vơ lạc lõng. Tôi cứ ám ảnh mãi với câu nói của ai đó: “Có buồn thì làm nũng với mẹ, chứ ai lại làm nũng với đời!”.

Cho nên bao nỗi lo toan phiền muộn tôi cứ ôm lấy một mình và vì vậy khi gặp nỗi khổ đau ngang trái, tôi chỉ biết âm thầm khóc mà thôi.

 

Nhưng rồi tôi cũng đã tự nhủ mình phải làm cái gì để hy vọng được thoát ra khỏi đêm tối tăm này. Tôi đã liều đứng dậy vào gặp ông trưởng đồn xin cho chúng tôi được đến trại đưa thức ăn cho thân nhân rồi bị bắt giam trở lại

cũng cam lòng. Không ngờ câu nói liều lĩnh của tôi đã có kết quả quá ư tốt đẹp. Họ tha hẳn chúng tôi tiếp tục lên đường, không gây một khó khăn trở ngại nào hết.

Vậy là đò lại tiếp tục ra đi trong đêm tối đen như mực. Lúc ra sông càng nguy hiểm bội phần. Từng vè lục bình to lớn trôi lều bều giữa sông; đò ngang đò dọc xuôi ngược lẫn nhau, khó thấy đường mà tránh, đụng nhau chìm đò là chuyện thường xảy ra. Vì vậy, mỗi lần đi thăm nuôi, tôi thường nhắn nhủ dặn dò với đứa con còn lại, lỡ tôi đi luôn không về thì sao!

Nhưng rồi, mọi gian nguy cũng đã qua. Trời Phật vẫn còn thương xót cứu vớt tôi cùng gia đình và đưa đến bến bờ Tự Do này.

 

Cuộc đời tưởng đã tan hoang, mênh mông bất trắc. Vào quê hương mới không biết đứng ở vị trí nào, chỉ muốn tan loãng vào cái thế giới không tên tuổi cho qua ngày tháng. Rồi dần dần mọi điều không như ý lúc ban đầu đã được cải thiện, đã hội nhập được với dòng sông chính của cộng đồng và đời tôi đã bớt lênh đênh chìm nổi.

 

Anh Thiệu ạ,

Ngày còn đi học, tôi đã từng viết lưu bút mơ ước sau này sẽ có một cuộc sống sôi nổi, sẽ là cây tùng cây bách đứng vững với thời gian. Bây giờ tôi chỉ mong được làm nhánh hoa chùm gởi, góp phần làm đẹp phần nào cho đời và an phận cho đến cuối cuộc đời mình. Ước mơ xưa đã thay đổi; nội tâm tôi cũng đơn giản đằm thắm hơn trước và vẫn tự nhủ lòng: chuyện xưa đã thành chuyện kể, rừng xưa đã khép, những gì không còn nghĩa là nghiệp duyên đã tận. Nếu có nhớ cũng chỉ là để vui chứ không buồn thương tiếc hận nữa. Vấn vương chỉ làm mình thêm khổ mà thôi.

Với tôi, bây giờ khi nghe được một bản nhạc hay, đọc được một cuốn sách vừa ý hay được gặp lại người bạn cũ mà mình đã xa cách hằng mấy chục năm trời cũng đã thấy sung sướng vô cùng! Đời là vô thường. Vô thường mà được như thế này là quý lắm rồi đó!

Vậy thì, xin anh hãy mừng cho tôi.

 

Thân ái,

 

Hoàng Thị Doãn München, Đức Quốc.

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2014(Xem: 3152)
Bổn phận Thầy tu cứu độ đời Tự Tha cùng độ Sư Phụ ơi ! Nương Phật tìm con đường giải thoát Cùng LY phiền não lạc an đời
06/08/2014(Xem: 6532)
Mẹ : Trong vũng tối thả buồn hiu hắt, Mẹ bây giờ là hạt sương rơi, Sao cầm được đôi dòng nước mắt, Phận lẻ loi trong chốn chợ đời. Con : Còn nợ trần bờ vai đeo nặng, Con u buồn giữa phố đông vui. Vu Lan tới, Phật Đường thầm lặng, Nghe tiếng chuông, nhớ mẹ ngậm ngùi.
02/08/2014(Xem: 3477)
Tôi không đủ ngôn từ để diễn tả nhưng tôi vẫn cố gắng viết để tri ân và đền đáp những bạn bè cùng học sinh Trưng Vương thân yêu đã dành cho tôi những cảm tình thương mến, những tiếp đón quá ư nồng hậu, ngoài sự mong ước của mình trong chuyến đi U.S. vừa qua. Qua bao nhiêu Email thăm hỏi ân cần của Kim Dung rồi của Mai Phương - Hội Trưởng Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương Nam California – tôi quyết định bay qua Cali. tham dự “Đại Hội Trưng Vương Thế Giới 2014” và sau đó đi Cruise 4 ngày nữa (21 – 24.7.2014).
29/07/2014(Xem: 4398)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế. Trời, vẫn chỉ là một vòm không gian hữu hạn trong tầm mắt con người; biển, là bốn đại dương trên mặt địa cầu; không thể nói là vô biên, vô lượng. Tình thương của cha mẹ dành cho con cái, thì khác: không giới hạn.
24/07/2014(Xem: 9740)
Xuất gia không phải là nghèo Xuất gia là để noi theo Phật Đà Xuất gia lý tưởng cao xa Xuất gia để khỏi bôn ba chợ đời Xuất gia điều tốt tuyệt vời Xuất gia có nghĩa xa rời thế gian Xuất gia giải thoát nhẹ nhàng Xuất gia tự tại muôn ngàn bình yên
19/07/2014(Xem: 13255)
¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TK. Thích Huyền Quang), trang 8 ¨ ĐẠO PHẬT VIỆT TK THỨ I VÀ THỜI KỲ BẮC THUỘC t.t. (HT. Thích Đức Nhuận), trang 9 ¨ BƯỚC XUỐNG TRẦN GIAN, DUYÊN NỢ (thơ Hàn Long Ẩn), trang 13 ¨ QUYẾT NGHỊ ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN LẦN II, NHIỆM KỲ II (GHPGVNTNHK), trang 14 ¨ HÌNH ẢNH ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN VÀ AN CƯ TẠI PHV QUỐC TẾ (Hophap.net), trang 16 ¨ PHỤC BÁI THƯỢNG VĂN (BHDTƯ GĐPTVN), trang 18 ¨ NIỀM VUI TU HỌC (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 19 ¨ TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ BẠN (HT. Thích Trí Chơn dịch), trang 20 ¨ NGÀY ĐẦU AN CƯ CỦA PHẬT GIÁO TẠI HOA KỲ (Thích Minh Dung), trang 23 ¨ HÌNH ẢNH KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN IV (Hoavouu.com), trang 24 ¨ CHÉN TRÀ TÀO KHÊ (Thích Nguyên Tạng), trang 26 ¨ ĐỒI MÂY (thơ Lý Thừa Nghiệp), trang 28
17/07/2014(Xem: 8548)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/06/2014(Xem: 4518)
Vào một buổi sáng thật đẹp trời của ngày 26 tháng 11 năm 2012, phái đoàn nhỏ của chúng tôi gồm Thượng Tọa Quảng Đạo (Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc), tôi (Chùa Hương Sen, Hoa Kỳ) và vài nam nữ Phật tử nữa được Thượng Tọa Phổ Huân (Trụ trì chùa Pháp Bảo, Sydneys) đưa lên viếng cơ sở thứ hai của chùa Pháp Bảo là Tu viện Đa Bảo, tiểu Bang New South Wales, Úc Châu, và thăm Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc, đang nhập thất tại đây.
21/06/2014(Xem: 10491)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
16/06/2014(Xem: 34159)
Ngày ấy cách đây 50 năm về trước, vào một sáng đầu mùa hè của năm 1964, tôi một mình đạp xe đạp từ làng Mỹ Hạc, Xã Xuyên Mỹ, Quận Duy Xuyên, trực chỉ xuống chùa Viên Giác tọa lạc tại Hội An, Quảng Nam. Hôm đó là ngày Rằm Tháng 5 âm lịch của năm Giáp Thìn. Một chặng đường dài 50 năm như vậy, nói cho đúng là nửa thế kỷ của một kiếp nhân sinh- đã, đương và sẽ có nhiều điều đáng nói. Hay có, dở có, không như ý cũng có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]