Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC - Tấn Nghĩa

07/01/201104:59(Xem: 3590)
HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC - Tấn Nghĩa

HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC
Tấn Nghĩa

Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.

Câu chuyện bắt đầu rất bình thường, nói về một hoạt động cũng… bình thường của con người ( nhưng lại ít được đề cập trong truyện, phim,…) là vấn đề đi vệ sinh.

Một cô gái thuộc tầng lớp nghèo đi ngang qua cung điện nhà vua mà muốn…đi vệ sinh. Cô ngồi xuống, lấy áo che thân cẩn thận, đi xong và đứng dậy nhanh nhẹn. Câu chuyện chỉ thế thế, rất…rất nhạt nhẽo. Thế nhưng, có điều gì cần suy ngẫm?

Con người ta thường có hai cách xử sự. Một cách công khai, hình thức, mang tính giao tiếp. Người Anh gọi đó là cách xử sự formal. Một cách khác, mang tính riêng tư, cá nhân, không…phổ biến cho người khác. Tiếng Anh gọi đó là cách xử sự informal. Điều này thấy rõ trong các hoạt động ngoại giao. Nhà ngoại giao có thể bắt tay, trò chuyện vui vẻ, nhưng trong chỗ tiêng tư có thể chửi bới hạ nhục nhau. Nhà ngoại giao có thể bên ngoài thì khen ngợi nhưng trong bụng thì… chửi thề. Trong những ngày gần đây, Wikileaks công bố các trang tài liệu mật, phổ biến cho bàn dân thiên hạ cái thể hiện đằng sau các nghi thức ngoại giao đẹp đẽ. Tình trạng phải có các cư xử formal và informal làm cho con người ta phải sống một cuộc sống hai mặt. Mọi người cũng quen với tính trạng đó và cho đó là bình thường, lẽ đương nhiên phải là như vậy.

Một loại suy nghĩa khác thể hiện tình trạng hai mặt. Một người khách đến nhà chơi được tiếp đón nồng hậu, lịch sự. Trong khi đó, đối xử với người nhà thì lạnh nhạt, bất lịch sự. Khách đền nhà chơi thì chỉ trong thoáng chốc, vậy mà được đối xử tử tế. Còn người cùng sống với ta, sao lại không tử tế như đối với khách để cuộc đời hạnh phúc hơn một chút.

Vậy thì cách xử sự của cô gái này có điểm gì lạ? Cô xử sự một cách formal ở nơi không ai thấy, nghĩa là trong bối cảnh informal. Đây chính là điểm đặc biệt của đoạn văn này. Nó cũng thể hiện quan điểm chung của Phật học: con người ta không nên sống hai mặt, cái thể hiện ra cũng đúng là cái ta suy nghĩ. Xử sự ở nơi công cộng cũng giống như ở một mình. Nếu ban khen một người, thì đó cũng phải là điểm đáng khen thật sự. Nếu bạn lịch sự với một người thì đó cũng phải do sự tôn trọng Phật tính bên trong con người đó. Nếu bạn nói điều mà bạn không nghĩ như thế thì đó là tội nói dối. Nếu bạn tử tế với người ngoài thì cũng nên tử tế với người cùng sống với mình.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nai, ngang qua cửa sổ đang nhìn xuống. Vua thấy nữ nhân ấy liền suy nghĩ: Người này trong khi giải toả sự bức bách của thân tại sân vua như vậy, vẫn biết tránh các lỗi lầm và nguy hại của lỗi lầm, dùng áp đắp che đậy, giải toả bức bách xon đứng dậy một cách nhanh nhẹn.

Nhà vua đã thấy hành động của cô gái. Bằng kinh nghiệm trị vì của mình, vua nhận thấy cá điểm đặc biệt trong hành vi của cô. Dù không có ai, cô cũng hành động một cách cẩn trọng, không buông tuồng. Ngày xưa, các vụ lớn tuổi, khi dựng vợ gả chồng cho con cái cũng sử dụng biện pháp “quan sát thực tế” hay “coi mắt” để có thể thấy được các hành vi…informal của…đối tác. Vua suy đoán:

Nữ nhân này chắc chắn khoẻ mạnh, nhà cửa nữ nhân này sạch sẽ. Với nhà cửa sạch sẽ, nếu có một đứa con thì đứa con ấy sẽ được sạch sẽ và sống có giới đức. Ta phải đặt người này lên làm hoàng hậu.

Nhà vua đang thực hiện công đoạn của một nhà tướng số. Các sách nhân tướng đều phát triển theo dạng: “người có tướng X” thì “có tính tình, đặc tính Y”. Chẳng hạn, có sách ghi: “người hay rung đùi thì tán tài”. Sách nhân tướng ấy không có câu trả lời. Hỏi đi hỏi lại, thầy tướng số sẽ trả lời : “các bậc tiên thánh, cổ nhân nói như vậy. Nghiệm đi nghiệm lại thì vẫn thấy đúng”. Nghĩa là : “lời cổ nhân là tiên đề, đừng hỏi nữa”. Thế là, môn tướng số trở thành loại “ khoa học huyền bí”.

Câu hỏi “tại sao có tướng X ấy thì có đặc tính Y” không được các sách tướng số trả lời.

Có chuyện kể rằng: một nhà tướng số quan sát thấy một vị chẳng có tướng gì quý, nhưng lại là người có nhiều trọng trách. Vị tướng số này thắc mắc và tìm mọi cách thâm nhập là gia nhân của vị kia. Cho đến một ngày, nhà tướng số thấy được quý tướng (ví như nốt ruồi son…) ẩn tàng của vị kia, bèn “ à thì ra là vậy”. Câu chuyện nghe rất hay, tuy nhiên, suy nghĩ của nhà tướng số cố một số “ tiên đề” :

- Mỗi người tài đều có quý tướng
- Quý tướng đó phải thể hiện trên thân thể.

Thế nhưng, cũng các nhà tướng số lại lưu truyền câu: “ tướng tuỳ tâm sinh, tướng tuỳ tâm diệt”. Đó là nhận xét đỉnh cao của các nhà tướng số. Nếu “ tướng tuỳ tâm sinh” thì một câu hỏi căn bản của nhân sinh cũng được đặt ra : “ bằng cách nào có được quý tướng ấy?”. Nếu “tướng tuỳ tâm diệt” thì câu hỏi đặt ra cũng là “bằng cách nào làm mất cái tướng hạ tiện mà mình đang có”. Cái “quý tướng, tiện tướng” biến động theo tâm như vậy thì làm sao mà rút ra quy luật? Các nhà tướng số không trả lời câu hỏi này. Họ chỉ là những nhà hiện tượng học. Cau hỏi đó đánh dấu điểm cuối của môn nhân tướng học. Muốn trả lời nó, cần phải bắt đầu một con đường khác. Điểm cuối của nhân tướng học cũng là điểm bắt đầu của Phật học.



Bài kệ đầu tiên của kinh Pháp Cú (phẩm Song yếu) mà mọi Phật tử đều thuộc lòng, viết :

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo

Suy đoán về con người qua tướng của họ cũng chỉ là một cách làm gián tiếp , không theo dõi được các diễn biến của “tâm”, nguồn gốc của các tướng. Phật học dặn rằng, đừng xem tướng mạo bên ngoài( lầm chết được!) mà hãy quan sát trực tiếp hành vi. Đoạn văn trong Jàtaka trên tuy đơn giản nhưng lại đi vào điểm khác biệt sâu xa của cách xem tướng trên nhân quả của Phật học. Đức Phật nói:

“Tướng của người ngu ở trong hành động( của mình); Tướng của người trí ở trong hành động( của mình)…Có ba pháp nàà, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây này các Tỷ -kheo, kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ- kheo, không suy nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết được rằng: “ người này là kẻ ngu, không phải bậc chân nhân?” Vì rằng, này các Tỷ - kheo, người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên người hiền trí biết được :“ người này là kẻ ngu, không phải bậc chân nhân”. Có những pháp này, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.

Có ba pháp này, các Tỷ- kheo, là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí. Thế nào là ba? Ở đây này các Tỷ- kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỷ- kheo, không suy nghĩ thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền trí kia biết được: “ người này là người hiền trí, bậc chân nhân?”. Vì rằng, này các Tỷ- kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện , nên người hiền trí kia biết được: “ người này là người hiền trí,bậc chân nhân”. Có những pháp này, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người hiền trí, là ấn tích của người hiền trí” (Tăng Chi Bộ kinh, tập1, Chương 3 : Ba pháp, phẩm Người ngu)

Như vậy, từ một quan sát về hành vi nhỏ, nhà mua suy đoán các đặc tính về lối sống của cô gái. Việc lối sống không mang tính hai mặt là một điểm đặc biệt, không phải dễ kiếm. Vua nghĩ rằng nàng có thể làm hoàng hậu cho mình. Như thế, chỉ nhờ việc cẩn thận trong những việc nhỏ nhặt mà cô gái được nhà vua phong làm hoàng hậu.

Các suy luận thực tiễn và hướng tới lợi ích như vậy cũng là một đặc điểm của Phật học. Ngày nay, phim, tiểu thuyết, báo chí…luôn nói tới “ tình yêu” trong việc tiến tới ngôn nhân, xem đó như là điều kiện tiên quyết và là yếu tố giải quyết mọi vấn đề. Nếu hỏi “ có tình yêu để làm gì?”, câu trả lời hẳn phải là “ để gia đình hạnh phúc”. Vậy thì hạnh phúc mới là cái cần phải quan tâm. Tuy nhiên, hạnh phúc cần nhiều yếu tố, mà trong đó “ tình yêu” chỉ là một. Phật học chỉ cho người ta cách suy nghĩ thực tế hơn, quan sát nếp sống của người mà ta định chọn để lập gia đình: người này có mạnh khoẻ không? Ăn ở có sạch sẽ không? Nếp sống có giới đức hay không?

Nhà vua, sau khi biết được nữ nhân này chưa thuộc sở hữu của ai, bèn cho gọi nữ nhân ấy đến và đặt vào địa vị hoàng hậu. Nàng trở thành người vua yêu thương và ưa thích. Khong bao lâu nàng sanh được người con trai. Nhà vua đặt người con trai nàng lên làm chuyển luân vương.

Sau khi có các phỏng đoán như vậy, vua tiến hành kiểm tra các phỏng đoán này, đặc biệt là việc cô đã có gia đình hay chưa. Các suy đoán cần phải được kiểm nghiệm bằng thực tế. Sau khi đã kiểm tra tất cả, vua cưới nàng làm vợ.

Bồ- tát khi nghe câu chuyện về sự may mắn của nàng, dùng cơ hội này thưa với nhà vua: Phàm việc gì cần phải làm cho được tốt đẹp, sao lại không cho học tập. Sự việc này ,do nữ nhân này có công đức lớn khi giải toả sự bức bách của thân, vẫn biết tránh các lỗi lầm và nguy hại của lỗi lầm, biết dùng phương tiện che đậy, khiến nhà vui đẹp lòng và ban cho nàng phước lợi như vậy!.

Nhà vua khi cưới hoàng hậu, chỉ mới có nhận xét về đặc tính cẩn thận của nàng ở chỗ riêng tư. Bồ- tát- ở đây, trong văn cảnh của Jàtaka, chính là để chỉ một tiền thân của Đức Phật Thích Ca- không dè bỉu, không hạ thấp sự may mắn của cô gái nhà quê. Không cho rằng cô là…mèo mù vớ cá rán. Ngài tuỳ hỷ công đức, vui khi thấy người khác làm điều lành. Ngài vui khi thấy được công đức của cô gái và vui theo niềm vui của cô gái. Đây chính là con đường vương giả trong việc tích luỹ công đức. Chia sẻ tài sản, cúng dường người có đức…đều đem lại công đức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là : làm sao để có công đức nhiều nhất mà cố gắng ít nhất? Phật học đã chỉ ra một phương pháp… chẳng cần làm gì cả mà vẫn có công đức. Đó chính là tuỳ hỷ công đức. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Nếu tuỳ hỷ công đức, mỗi ngày bạn sẽ không phải chỉ có một mà có vô số niềm vui vì trong ngày, chắc chắn bạn sẽ gặp niềm vui của rất nhiều người. Có truyền thống Phật giáo còn định lượng hẳn hoi: nếu vui theo niềm vui của người có sự tự điều chỉnh cao hơn mình thì mình sẽ được một nửa công đức đó. Nếu vui theo niềm vui của người có sự tự điều chỉnh kém hơn mình thì mình sẽ có công đức… gấp đôi người đó. Bồ -tát nhân câu chuyện của hoàng hậu, nâng nó lên thành một bài học phổ quát hơn để giúp ích cho nhiều người hơn. Theo ngài, mọi việc, dù ở nơi riêng tư, cũng cần phải làm cho tốt đẹp.

Nói xong, để tán thán mọi việc cần phải làm cho được tốt đẹp, Bồ- tát nói lên bài kệ:

Hãy học điều cần học
Dẫu có kẻ cứng đầu
Kẻ quê khéo tiểu tiện
Làm đẹp lòng nhà vua.

Nguồn:Văn hóa Phật giáo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2016(Xem: 3145)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
10/05/2016(Xem: 16547)
Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó
23/04/2016(Xem: 12286)
Các giới văn học Việt Nam xưa nay, thường nói : “Là thi sĩ, ai cũng có tâm hồn rất lãng mạn, đa tình trước trăng, sao, núi non, sông, hồ, suối reo, biển cả, trời xanh, đồng nội cò bay, sắc hương nữ nhân và ưa ru với gió, mơ theo trăng và lơ lững cùng mây . . .”.
21/04/2016(Xem: 19790)
Tôi đã đọc trên internet một bài viết rằng nhiều đọc giả nói tác giả của bài thơ “Mất Mẹ” được trích dẩn trong cuốn truyện rất nổi tiếng “Bông Hồng Cài Áo” là của chính tác giả Nhất Hạnh. Lại có bài viết rằng nhiều người đã nghe trong chương trình phát thanh cũng nói tác giả bài thơ “Mất Mẹ” là của Thích Nhất Hạnh.
08/04/2016(Xem: 20033)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 53, tháng 04 năm 2016, Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh.
05/04/2016(Xem: 7410)
Với những bậc cha mẹ Việt sống tại hải ngoại, được nghe con nói tiếng mẹ đẻ là hạnh phúc lớn lao, đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ. Làm thế nào để gieo cho con tình yêu tiếng Việt là câu hỏi lớn với những người làm giáo dục.
26/03/2016(Xem: 4996)
Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh. Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình. Đừng nghĩ suông rằng cuộc sống mong manh vô thường, khi chúng ta chưa thực sự mở lòng thương yêu, cảm thông, đón nhận quan điểm và lẽ sống của người khác.
10/03/2016(Xem: 10709)
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lạ i- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trôi chảy (nói) và thuận tai (nghe).
10/03/2016(Xem: 10446)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10467)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]