Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ

01/10/201015:05(Xem: 14566)
Hai bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ
HT Tam Chau-2

HAI BÀI THƠ CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ 
Thích Tâm Châu dịch và chú thích


ĐỐN TỈNH (Chợt tỉnh) 
Tuệ Trung Thượng Sĩ

頓省 

, 
。 
, 
。 
, 
。 
, 


Đoán tri không, hữu bất tương sa (sai) 
Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba. 
Tạc dạ nguyệt minh, kim dạ nguyệt, 
Tân niên hoa phát, cố niên hoa . 
Tam sinh thúc hốt chân phong chúc, 
Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma. 
Hoặc vấn như hà vi cứu cánh, 
Ma-ha bát-nhã tát-bà-ha

***
Có, không chỉ một mà thôi, 
Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra.
Trăng nay, trăng cũng đêm qua,
Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. 
Ba sinh, đuốc trước gió mồi,
Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay.
Tới nơi cứu cánh sao đây ?
Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha”

(Thích Tâm Châu dịch )

Đại ý: Bài thơ này Thượng Sĩ khuyên chúng ta cần phải tỉnh thức mau chóng về sự đối đãi ở đời để đi đến chỗ nhất như. Trong chân thể, có không chỉ là một.Sinh tử do làn sóng vọng động của vọng tâm sinh khởi, hết sóng thì nước yên.Trăng tối qua, trăng tối nay, ánh sáng của nó cũng chỉ là một. Hoa năm cũ , hoa năm mới đều là một thể chất của hoa. Thời gian của quá khứ, hiện tại, vị lai như cầm ngọn đuốc trước gió lùa. Chín cõi của chúng sinh còn bị luân hồi sinh tử, như kiến trên miệng cối xay. Muốn đạt tới giác-ngộ cứu-cánh, cần phải thành-tựu trí-tuệ siêu-việt.

KIẾN GIẢI (Thấy biết) 
Tuệ Trung Thượng Sĩ


見解 

, 
。 
, 


Kiến giải 

Kiến giải trình kiến giải, 
Tự niết mục tác quái. 
Niết mục tác quái liễu, 
Minh minh thường tự tại.



Nơi mình, kiến-giải trình ra,
Đưa tay chà mắt đốm hoa hiện bày.
Lạ lùng, chà mắt, buông tay, 
Tính chân tự-tại rạng ngời thường như.

(Thích Tâm Châu dịch )


----


(Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thích Tâm Châu dịch -- in trong Cánh Hoa Tâm . Canada 2001)

Đại ý : Kiến-giải (Darsana) : Ấn Độ gọi là triết học Có nghĩa là sự thấy biết, sự nghiên cứu sâu xa đến căn bản chân lý của sự sự, vật vật. Tức là sự hiểu biết phân biệt chân, giả, đúng, sai, hay, dở đối với sự vật . Đây là một thi kệ, trình bày sự thấy biết của Tuệ Trung Thượng Sĩ. 

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thực là Trần Tung, con trai Trần Liễu, anh ruột Trần Quốc Tuấn, và là anh vợ vua Trần Thái Tông là Hoàng Hậu Nguyên-Thánh Thiên-Cảm. Vua Trần Thái Tông phong cho ông tước Ninh Hưng Vương. Khi còn nhỏ, ông đã hâm mộ cửa Phật. Tính tình thanh cao, thuần hậu. Ông tham học nơi thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường. Ông trực tiếp cầm quân chống quân Nguyên Mông. 

 

Ông làm Tiết Độ sứ ở Thái Bình. Ít lâu sau ông lui về ở ấp Tịnh -bang, lập Dưỡng- Chân -Trang và tiếp tục tham cứu đạo Phật. Vua Trần Thánh Tông thường tham cứu thiền học nơi ông. Nhà vua rất khâm phục, ban cho ông hiệu “Tuệ Trung Thượng Sĩ”.

Bài thi kệ “Kiến-giải”của ông nảy sinh trong trường hợp trai tăng trong Hoàng Cung. Nhân, vua Trần Thánh Tông làm lễ trai tăng, thỉnh các bậc danh tăng và Thượng Sĩ vào cung cúng dường, cầu siêu cho Hoàng Hậu đã mất. Trai tăng xong, nhà vua xin mỗi vị một bài thi-kệ ngắn về kiến giải của mình. Đến lượt Thượng Sĩ, Thượng Sĩ liền viết ngay bài thi kệ này.

Thi kệ này, hàm ý, nói về nghĩa chân và vọng. 

Chân, như thực không thay đổi. Vọng, giả dối, không thực, hay thay đổi. Mắt vẫn sáng, lấy ngón tay ấn vào mắt, mắt hiện ra những hoa đốm trong hư-không. Khi tay không ấn nữa, mắt trở lại sáng như cũ. Đem sự thấy biết của mình trình bày, so sánh với sự thấy biết khác, chỉ là sự thấy biết vọng, chứ không phải chân! Vì còn có sự đối đãi !

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5844)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
17/11/2014(Xem: 18628)
Trên chuyến bay từ Paris đến Reykjavik, thủ đô Iceland, tôi không khỏi mỉm cười khi thấy trên màn hình giới thiệu du lịch có những từ “mindfulness” (chánh niệm), “meditation” (thiền), “here and now” (bây giờ và ở đây). Hôm trước cũng nghe một thiền sinh ở Làng Mai (LM) chia sẻ rằng cô thích thú khi nghe một nữ tiếp viên hàng không nói với khách: “Please have mindfulness to bring your luggage down…” (xin chánh niệm khi đưa hành lý xuống…). Thiền tập đã đi vào đời sống người châu Âu đến vậy, có phần ảnh hưởng khá lớn của LM.
16/11/2014(Xem: 4329)
Vẫn biết rằng ai sinh ra cũng có một quê hương để yêu dấu, để gắn bó, để tưởng nhớ khi chia xa. Tuy nhiên tôi luôn luôn có cảm nghĩ là người Huế sống và bộc lộ tình quê hương mãnh liệt hơn bất cứ người dân vùng nào khác chăng?
03/11/2014(Xem: 53560)
Theo truyền thống Tăng Già, hằng năm chư Tăng Ni đều tụ về nhóm họp một nơi kiết giới an cư, hầu thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định, Tuệ là ba môn vô lậu học, tăng trưởng đạo lực sau những tháng ngày bận rộn hoằng pháp lợi sanh. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi –Tân Tây Lan được thành lập năm 1999, mỗi năm đều qui tụ tại một trú xứ được chọn trước để an cư tu tập trong mười ngày. Năm nay Đạo tràng Tu Viện Quảng Đức chúng con được Hội Đồng Điều Hành và Tổng Vụ Tăng Sự giao phó trách nhiệm tổ chức Mùa An Cư lần thứ 15 của Giáo Hội. Đạo Tràng chúng con đã thỉnh ý Chư Tôn Giáo Phẩm trong Giáo Hội và quý Ngài đã đồng thuận tổ chức kỳ An Cư Kiết Đông năm nay tại Tu Viện Quảng Đức theo ngày giờ như sau:
02/11/2014(Xem: 3965)
Thời gian trôi xa nay đã hơn 7 mùa trăng thu lồng lộng duới bao lớp huyền suơng nơi xứ nguời (từ năm 2006-2014) Tuy nhiên, nhìn lại chỉ còn là một thoáng như bóng mây qua cửa, như dòng nuớc có khi thanh thản, có lúc nặng nề vẩn đục lặng lẽ trôi và trôi xa.
01/11/2014(Xem: 19379)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơn nữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạo pháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau nhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúng nói lên rất ít ỏi, nhưng không vì thế mà chúng không mang lại cho chúng ta một cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về cuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấy rõ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyện kiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”
30/10/2014(Xem: 3545)
Suốt bao năm dài lưu vong nơi xứ người, tôi đã trăn trở, khắc khoải nhớ thương Huế - nơi tôi đã sống những ngày bình yên và thanh thản với tất cả tấm lòng ngây thơ của người con gái mới lớn. Hình ảnh Huế đẹp và thơ đã hiện về thường xuyên như một nhắc nhở trong tâm tưởng, trí nhớ, giấc ngủ và cơn mơ của đời tôi ! Huế mãi mãi vẫn là một vùng thánh địa thiêng liêng, bất khả xâm phạm trong góc sâu thăm thẳm của trái tim tôi. Kỷ niệm về tuổi trẻ vô tư, người tình đầu đời, bạn bè thân ái, những chốn hẹn hò rong chơi, ngôi nhà cũ, mái trường hồng vôi tím, những con đường đầy bóng mát từng chứng kiến cảnh gặp gỡ đầy yêu thương.
27/10/2014(Xem: 15353)
Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Song Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc). Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:
09/10/2014(Xem: 13837)
Nói thiệt, tôi chẳng biết ông Lê Hựu Hà nghĩ gì khi viết bảy chữ này. Nhưng tôi đã xem đó như một đề nghị rất Phật giáo. Tôi chưa hề là một thiền sinh nghiêm túc, nói gì là thiền sư. Tôi chỉ là kẻ lãng du trong cõi Phật pháp và thỉnh thoảng ghé chơi dăm khu vườn văn nghệ như một cách nghỉ chân. Và chính bảy chữ đó của người nhạc sĩ họ Lê từ lâu đã là một khẩu quyết cho tôi những khi nghe, đọc, ngắm nhìn cái gì đó tình cờ bắt gặp. Chẳng hạn tôi đã yêu ca dao Việt Nam từ những lời rất lạ.
06/10/2014(Xem: 16547)
Thông thường, trong một tác phẩm văn học nghệ thuật, lời Tựa mở đầu bao giờ cũng được tác giả tự bộc bạch, thổ lộ, diễn bày rất cẩn trọng dài dòng, để người đọc dễ lãnh hội sâu vào nội dung tác phẩm đó, nhưng với Triều Nguyên thì lại hoàn toàn khác hẳn, khi viết Tựa cho tập thơ đầu tay Bay Đi Hạt Cát của mình, thi sĩ chỉ có một câu duy nhất, thật vô cùng giản dị : “Sa mạc buồn thương hạt cát bay đi…” Giản dị đơn sơ mà độc đáo, thể hiện một cốt cách đặc thù riêng biệt trên con đường sáng tạo, ngao du qua những phương trời ngôn ngữ thi ca quá mộng dập dìu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]