Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Một Thời ( 40 năm về trước )

30/03/201506:32(Xem: 3694)
Có Một Thời ( 40 năm về trước )

Nguyen Hanh Hoang Thi Doan

 

                                   Có một thời dâu bể

                                   Nước mắt là huyết lệ

                                   Nụ cười chỉ tái tê

                                   Đời chìm vào cơn mê...

 

      Tôi muốn nói đến cái mốc thời gian cách đây 40 năm chính là tháng tư đen , nhưng lại là dấu ấn thắm màu máu đỏ đóng trên trang sử Việt Nam cũng là lằn ranh phân định  hai đoạn đời trước, sau năm 75 của người dân miền Nam nói chung và đời nhà giáo của tôi nói riêng, thật hoàn toàn tương phản!

      Đoạn đời trước đó, với ngôi trường phượng đỏ, tường hồng, còn ghi khắc bao kỷ niệm dễ thương mà tôi đã từng chia sẻ với học trò, với bạn bè. Ngược lại, đoạn đường sau này, dù ngắn ngủi hơn nhưng đã để lại cho đời mình những nỗi bi hài thâm thúy vô cùng!

      Xin chia sẻ với những ai chưa từng sống với "họ", những người đã may mắn ra đi sớm nhất và chưa hề biết Cộng sản là gì?!

 

                        Bức thư viết bằng máu!

 

      Người Huế hay nói: " Láo thiên láo địa, láo từ chợ Sịa láo vô ". Thật oan cho người Sịa. Tôi đã ở lại 14 năm sau 75,

nếu hỏi tôi ai láo nhất đời, tôi xin tặng ngay cho họ " Giải Nobel nói láo ". Láo từ trên xuống dưới, láo từ trong ra ngoài, láo từ  trước đến sau, láo có hệ thống, có chỉ huy, có áp lực.

       Khi xảy ra chiến cuộc với Trung Quốc năm 1978, con tôi đang học ở trường Đại học Bách khoa- Phú Thọ. Bọn đoàn viên mà mọi người gọi là bọn " ba mươi " làm nhiều điều xu phụ, nịnh bợ để giành quyền lợi vật chất, để phấn đấu vào đảng... Nhưng đến khi phải hy sinh như việc phải ra chiến trường chẳng hạn thì họ tìm cách đẩy bọn con em "nguỵ" đi trước. Khi chiến cuộc bắt đầu hơi căng, chúng bày trò " Cắt tay lấy máu viết lá huyết thư " đưa lên Thành uỷ xin tình nguyện nghỉ học để lên đường đi đánh Trung Quốc. Con tôi không biết gì cả, tự nhiên sáng dậy vào trường thì đã thấy tên mình đứng ngon lành trên bức thư viết bằng máu đòi bỏ học để lên đường cứu nước!!! Nhìn lại ngón tay mình đâu có đứt. Máu chó hay mực đỏ ? Hỏi quanh mấy thằng bạn, có nhiều đứa cũng con "nguỵ", cũng không đoàn viên, cũng không tình nguyện, cũng không " đứt tay " mà cũng có tên trên bức huyết thư đó!

       Bức thư dâng lên Khoa trưởng, Khoa trưởng dâng lên Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Chủ tịch chấp thuận. Thư in lên báo, báo chí ca cải lương thêm, định ngày tháng rõ ràng trong hai tuần nữa là làm lễ xuất quân. Phát áo quần hành trang cho từng đứa và ông Chủ tịch sẽ đến dự lễ. Nhà trường ra thông báo ngày trình diện, các " sinh viên tình nguyện " phải mặc đồ nhà binh sẵn, mang ba lô để làm lễ xong là lên đường luôn. Nghe có vẻ là quá dứt khoát, có vẻ là lệnh lạc đã đâu vào đấy rồi. Tuy nhiên ở cuối thông báo có một câu rất mâu thuẫn khôi hài:

 

                   " Ai trốn trình diện sẽ bị đuổi học "

 

 

      À ha! Những đứa đã hăng hái cắt tay mình lấy máu để viết thư đòi nghỉ học để cứu nước, sao lại còn " trốn " nhỉ? Cái ngòi bút của họ sao mà dễ uốn cong đến thế! Cuối cùng cũng lòi đuôi chuột!!!

      Tất nhiên con mình với những thằng con " nguỵ " khác, bèn tẩu vi thượng sách. Không trình diện! Đành phải ra đi thôi, không còn con đường nào khác!

 

                          Mái tóc của Hiền

 

      Thời đó, ở trong nghề nhà giáo, tưởng đã núp lén được nhiều, yên thân hơn một chút, hóa ra họ gán cho các Cô mấy chữ " Cái máy cái " để sản xuất ra những cái " máy con "; ấy là các Thầy Cô được dạy nói dốc để đẻ ra những cái máy nói dốc khác, nhất là giáo viên Văn và Sử. Dạy lớp 9, phải ca tụng tác phẩm " Hòn Đất "của Anh Đức trong đó người mẹ là " Bà Cả Xợi " đã phĩnh dỗ được con trai theo "nguỵ" về để cho họ phục kích giết chết. Dạy lớp 11, phải đặt chuyện quan lại phong kiến áp bức nàng Kiều, phải ca tụng Từ Hải là cách mạng v.v... Thiệt là vui !

      Cô bạn dạy Văn kể lại: " Mình nói láo không trôi chảy nên mặt mày dễ bị lộ, cho nên đã có lần một thằng đoàn viên nó báo cáo là khi cô giảng bài, mỗi lần nói đến mấy chữ " Bọn quan lại mục ruỗng " là thấy cô cười méo méo, nửa cái miệng xích qua bên trái. "

      Rồi Cô kể tiếp:

    " Thường thường mình hay khó chịu với những mái tóc dài rũ xuống hai bên má, lòa xòa che cả mặt. Khi cúi viết bài, có em bỏ mặc cho tóc rũ phía trước che hết mặt; có em thì chống cùi chõ lên bàn, đưa một tay chống màng tang, vén bớt một bên tóc, chỉ còn một tay ghi chép một cách chễnh mãng.

       Một hôm, có một em ngồi ở đầu bàn, tóc xõa cả hai bên má, mình vừa giảng vừa bước xuống gần, nói nhỏ " Buộc tóc lên ", không ngờ cô bé cả gan ngước mắt lên nói lại với mình, cũng rất nhỏ: " Thưa Cô, mái tóc của em để xõa hay vén lên là có mục đích. Dạ, em vén lên những giờ khác, còn em xõa để che tai là các giờ Chính trị, Sử và Văn... Than ôi! Mình lại đang dạy Văn, đành cứng họng làm thinh, xấu hổ đến đắng cả cổ, không nuốt nổi nước bọt để mà giảng tiếp. Thế là mình đã quá dại, quá lộ liễu. Dạy Văn là phải nhai lại những giáo án soạn sẵn của họ; giảng Kiều mà kiếm cách chửi bọn phong kiến mục ruỗng áp bức nhân dân, thế cũng còn hơi dễ chứ giảng Kiều mà phải ngoẹo sao cho ra cái " Liên hệ thực tế, liên hệ tư tưởng là chống Mỹ cứu nước " thì thật là khó. Khó, nhưng rồi họ cũng dạy cho để nói được. Nói được, nhưng chắc cái miệng cười méo qua một bên như từng bị báo cáo có ẩn chứa một tình ý gì đó mà Hiền tinh ý nhận ra, mới dám phát biểu một câu nguy hiểm như vậy đó! "

 

                Tránh mãi cũng không được.

 

       Mỗi buổi sáng, sau khi ăn một củ khoai, xách chiếc xe đạp mini cũ mèm mà hấp tấp đạp tới trường.

       Hôm ấy ngày khai trường nhưng không phải là " Một sớm mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi " đâu. Tôi đạp hộc xì dầu vừa gần đến trường thì đụng phải một cậu bé cũng đi xe đạp. Đang đi sát trước bên trái tôi, nó quẹo phải, tôi ủi vào, cả hai cùng ngã, may không ai bị gì hết. Thấy cái mặt sốt rét vàng bủng với áo quần màu cứt ngựa, biết ngay nó chính là con nhà " ngoài nớ " vô, tôi liền sừng sộ:

    - Đi chi lạ rứa, đồ khỉ !

      Nhìn một cái tăm bánh xe trước của tôi bị quẹo, nó lúng túng sợ sệt:

    - Cháu xin lỗi, cháu có đưa tay ra hiệu mà cô không tránh.

    - Tránh, tránh cái con khỉ, tránh ba mươi năm ni rồi mà không được, chừ phải đụng đây.

      Tự nhiên, bao nhiêu căm phẫn tôi trút hết lên màu áo cứt ngựa mà tôi đã vốn ghét sẵn:

    - Có biết đây là Saigòn không? Xe đạp là hạng bét rồi, còn ra hiệu cho ai tránh nữa- tôi trề môi kéo dài ra hai chữ " ra hiệu "- về trong rừng của mày mà ra hiệu cho khỉ nó tránh.

     Chưa đủ, tôi còn tặng cho nó một cái nguýt có đuôi rồi mới lật đật vào trường.

     Ai ngờ, Trời phạt! Một sự trùng hợp không thể tưởng tượng được! Ấy là giờ đầu, tôi điệu bộ bước vào lớp 10 C2 với cái vẻ nghiêm trang nhưng " hiền hòa, phúc hậu " của một nhà giáo đầy vẻ bao dung, nở nụ cười đầu năm để chào các em học sinh mới. Cả lớp đứng dậy, thì... ôi thôi, cái thằng bé kia đang đứng ngay ở bàn đầu.

     Trời! " oác " ơi là " oác ", thiệt không biết cách nào mà độn thổ cho rồi. Không biết lúc ấy cái mặt tôi ngượng đến cỡ nào, còn em học sinh kia thì cúi gầm mặt xuống.

    Từ đó, việc dạy lớp 10 C2 đối với tôi là cả một hình phạt tâm lý vô cùng nặng nề, kéo dài trong suốt cả niên học. Không bao giờ tôi quên được thái độ dữ dằn, làm đày làm láo không nhà giáo tí nào của tôi khi ăn hiếp đứa trẻ. Lắm lúc đang giảng bài mà thấy mặt nó, tôi khựng lại, thật ngượng cho cái lớp áo nhà giáo của mình. Cũng còn một chút may không phải là lớp Chủ nhiệm. Nếu không, với cái cách hướng dẫn gần gũi, thân tình của cô Chủ nhiệm, tôi biết ăn làm sao, nói làm sao! Trời phạt tôi cú này thiệt quá nặng!

 

                        Chỉ vì không có Prozac.

         Năm ấy, tôi làm Chủ nhiệm lớp 10 C3. Sau 75, trai gái học chung, có em Nguyễn văn Quang; em không thích học và cũng không giao tiếp với bạn bè.Tôi Chủ nhiệm nên theo sát để nâng đỡ. Thấy tập vỡ của em ghi chép loạn xà ngầu và thỉnh thoảng giữa bài lại chen vào câu " VC về rồi, đời không đáng sống! ". Ngồi trong lớp em không nghe giảng, thường thu mình lại. Tôi nhẫn nại khuyên bảo, hình như cũng có đôi chút lọt lỗ tai, nhưng rồi đâu cũng hoàn đấy.

     Tôi đến nhà em, tìm hiểu. Nghe cha mẹ bảo là ở nhà em chỉ cuộn mình mà ngủ, thậm chí cũng không muốn ra ăn, không tiếp xúc với ai. Tôi khuyên giải, lại chỉ một câu trả lời: " VC về rồi, đời không đáng sống! ". Tôi khuyên gia đình đưa em đi khám bệnh tâm trí. Kết quả là em bị bệnh trầm uất. Thuốc Prozac chữa được bệnh này nhưng kiếm đâu ra? Nhiều dược phòng tôi quen đã phải vứt thuốc xuống sông, xuống giếng để phi tang cái gọi là tư sản! Mổ xẻ nhiễm trùng còn chịu chết vì không có thuốc trụ sinh, huống chi những thứ thuốc xa vời đó. Tôi có dặn dò là gia đình lưu ý cất giữ những đồ vật nguy hiểm, đề phòng em làm bậy.

      Hè đến, không còn gặp nhau.

      Một hôm, rằm tháng bảy, tôi đang cúi đầu lễ bái tại một ngôi chùa, ngẩng đầu lên tôi bỗng lạnh cả xương sống. Một cái hũ mới toanh với tấm hình và tên: Nguyễn Văn Quang, đặt ở bàn thờ!

     Trời ơi! Sao vậy!? Đã dặn rồi mà! Tôi đạp xe một mạch đến nhà em ở Hàng Xanh. Cớ sự cũng là vậy: Một hôm cả nhà đi vắng, dao rựa đã cất hết nhưng về nhà thì hỡi ơi...        „như thế! ". Một mảnh drap xé dọc làm hai đã kết liễu một cuộc đời !!! 

 

 

 

                       Vẫn còn tình thầy trò

 

      Nói vậy chứ không phải tất cả đều là chuyện buồn! Tôi

vẫn tìm được những tấm lòng và đó là nguồn an ủi của lớp người ở lại như tôi, 14 năm đằng đẵng!

      Có đứa báo cáo mình thì cũng có những đứa méc lại với mình! Có những nam sinh đã hết lòng giúp tôi trong những giờ lao động, những lúc mít tinh.

     Kể không hết những nỗi buồn thấm thía trong những cái gọi là lao động XHCN. Giáo viên phải giữ xe đạp của học sinh để lấy tiền cho trường bằng cách bán vé; rồi giờ tan học phải chạy ra trước để chận xét vé xe. Giáo viên phải bán cà rem, bánh ngọt cho học sinh trong giờ ra chơi, phải chạy ra trước học sinh để kịp bán và phải hấp tấp vào lớp sau học sinh vì còn nạp tiền. Phải xỏ dép nhựa gia công, làm gia công cho các tổ hợp mành trúc. Tiền kiếm được đều nạp cho ban Giám hiệu, cũng không hề nghe báo cáo là họ dùng vào việc gì. Những việc đó làm cho mình nhiều khi nhìn lại mình, không biết mình có còn là " cô giáo " hay không nữa! Nhưng cũng chính trong những giờ lao động đó mà mình tìm thấy được là mình còn có học trò. Các em nam sinh luôn luôn giúp đỡ tôi tận tình trong các công việc nặng. Chúng nó gánh vác hết và bao che khi thấy tôi tinh thần sa sút, chán nản.

     Còn nhớ năm tôi làm Chủ nhiệm cấp lớp 11, có em Trần Quý là một tay anh chị chợ Bà Chiểu. Khi tôi được chia Chủ nhiệm lớp ấy, các bạn đồng nghiệp đều ái ngại cho tôi, nhưng rồi tôi đã phong cho Quý làm Trưởng ban Trật tự kiêm luôn Trưởng ban Lao động. Ấy là tôi khỏe re suốt năm! Những buổi mít tinh, luôn luôn có điểm danh, thành phố kêu có mặt 8 giờ sáng, xuống đến quận còn lại 7giờ, xuống đến trường còn lại 6 giờ rồi Công đoàn trường muốn lấy điểm, lại trừ hao thành ra bắt có mặt 5 giờ sáng! Luôn

luôn Quý dặn dò tôi "Cô cứ ngủ, độ 8,9 giờ Cô xẹt ra một chút cho có mặt để ký giấy điểm danh, còn mọi việc để em ". Quý làm sao không biết, mà mít tinh hoài, tôi chẳng bao giờ mất ngủ mà lớp tôi vẫn đứng trung bình. Còn lao động mành trúc, Quý cũng để cho tôi thỉnh thoảng vắng mặt, nhưng không hiểu sao lớp tôi cũng có vài lần đứng nhất?

     Trong các thứ lao động, tôi chọn việc trồng khoai. Nhà của Quý ở gần bờ sông, còn chút đất chưa trồng trọt, tôi đem lớp Chủ nhiệm về đó trồng khoai. Lao động ở đó để buổi trưa còn được lên nhà Quý nghỉ mát và uống nước, còn tôi cũng được " mát trời tranh thủ ngủ một giấc ". Thì ra thầy trò chi cũng lòi cái bản chất tiểu tư sản ra cả. Chính trong những ngày lao động với nhau đó mà tình thầy trò nẩy nở, nẩy nở luôn cả một chút gì sâu kín bên trong, hình như là tình cùng đứng chung một giới tuyến!

      Kết quả của ba tháng lao động: Chuột cống đang moi hết khoai củ. Ngày " thu hoạch " chỉ còn những dây khoai già vàng úa! Thầy trò chúng tôi " Liên hoan kết thúc thắng lợi của 3 tháng lao động XHCN " bên bờ sông thơ mộng bằng một bữa cơm độn bo bo với rau khoai lang già luộc chấm xì dầu chanh tỏi. Buổi ăn liên hoan đó chưa bao giờ ngon như vậy. Về trường cứ sự thật mà " báo cáo thành tích " với Công đoàn. Kết quả lớp tôi đứng chót !

     Vậy mà vẫn vui vì những kỷ niệm này làm cho thầy trò chúng tôi khắng khít thương yêu nhau hơn.

     Thì ra những ngày sống dưới sự đày đọa từ thể chất đến tinh thần của một thời ngày ấy, vẫn còn có những gì còn lại, những gì mang theo thật ấm lòng và mãi mãi là những nét đẹp dễ thương muôn đời, nhớ đến vẫn còn cảm thấy bâng khuâng cả " tấc lòng " !

      Bao nhiêu năm qua rồi! Dù người bên đây hay người bên đó, dù bát cơm trắng ngày nay thay bát cơm độn ngày nào, mong rằng chúng ta đừng bao giờ quên chúng ta đã từng có những tháng ngày dở sống, dở chết; chúng ta đã từng có một thời - Nước mắt là huyết lệ !!!

 

                                                                Mùa 30 tháng 4 

                                                                   1975-  2015

                                               Nguyên Hạnh HTD

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý kiến bạn đọc
18/04/201518:16
Khách
Chị Nguyên Hạnh viết bài này hay quá, nhờ ở sự trung thực thấy sao viết vậy từ trải nghiệm của cuộc đời.Nhật Hưng xin đề nghị " Giải Nobel nói thật" cho chị.
18/04/201518:08
Khách
Chị Nguyên Hạnh Hoàng thị Doãn viết bài này hay quá, nhờ ở sự trung thực thấy sao viết vậy. Nhật Hưng xin đề nghị cấp "giải Nobel nói thật " cho chị.
31/03/201510:22
Khách
Một thời để quên và một thời để nhớ đến nổi uất hận, sự dối trá của độc tài đặt trên cổ toàn dân Việt đã 40 năm qua. Tháng tư này sẽ là cột mốc của sự thật ngôn luận để cho con cháu chúng ta được quyền hãnh diện làm người Việt Nam chân chính.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2021(Xem: 9479)
Thiền sư, thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, cuồng sỹ, du sỹ, lang thang sỹ, văn nghệ sỹ tự thuở nào đi về thấp thoáng, nhấp nhô trong sương mờ vạn cổ. Từ buổi mới khai thiên lập địa lúc ban sơ, nguyên thủy đến bây giờ, họ đã ra đi và đi mãi trên con đường mây trắng, con đường sáng tạo vừa lao đao, khổ lụy vừa hùng tráng, thênh thang, vượt qua mộng thực đôi bờ sinh tử, bằng một bước nhảy trọng đại, xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên. Huyền cảm tự do, họ thuận nhiên về trên cuộc lữ phong trần giữa một chiều diệu hóa hay một đêm trăng sao ảo huyền cùng tao ngộ bên “thềm cô phong tuyệt đỉnh hội mây ngàn” và hòa âm cung bậc với toàn thể cuộc đời. Đó là thể điệu chịu chơi Cưỡi Sóng Phiêu Bồng mà nhà thơ Thái Huyền đã hý lộng hát ca Khúc Lý Lả:
21/12/2020(Xem: 3501)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5900)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 12827)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 9827)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11041)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9646)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6760)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6581)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9546)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]