Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa trong vườn nhà

11/08/201809:29(Xem: 11626)
Hoa trong vườn nhà
Hoa trong vườn nhà
Chu Trm Nguyên Minh
 Nguyn Tùng Vân
 

 

 

 

 

 

Về Nha Trang, những người yêu văn chương chữ nghĩa, thập niên 60 đều biết và nghĩ về một gia đình có đến hơn một nửa thành viên hoạt động văn học nghệ thuật, một gia đình đặc biệt hiếm có ở Việt Nam .

Tôi xin được trân trọng viết về hai người thuộc hai thế hệ văn học của gia đình này.

 

Bắt đầu là:

 

1.

Nhà thơ TÂM TẤN

 Nu Si Tam Tan1 (1)

 

 

Bà sinh năm 1921 tại Đà Nẵng. Làm thơ năm 14 tuổi. Năm 1937, lúc bà 16 tuổi đã có thơ trên báo Tam Bảo. Và từ đó, bà xuất hiện: Trong Khuê Phòng, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Đàn Bà, Liên Hoa, Tự Do, Tiếng Dội, Giác Ngộ…

Bút hiệu khác: Trinh Tiên, Trinh Nữ. Khi viết tùy bút, xã luận, bà ký: Lan Xuân, Diễm Bút.

Bà là bạn của: Phạm Huy Thông, Yến Lan, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên. Và là nghĩa muội của cố thi sĩ Quách Tấn.

Bà đại diện miền Trung, nữ sĩ Thụy An miền Bắc, và Mộng Tuyết miền Nam, kết nghĩa thành ba chị em văn nghệ đại diện ba miền.

Tác phẩm đã in:

Tình Thơ [1944 - in chung với phu quân, nhà văn Bửu    

                                                                     Đáo Ái Mỹ]

Hương Đạo Hạnh [1974]

Cuộc Đời Lọc Những Tinh Sương [2004]

Muôn Vàn Hương Sắc [2012]

Có mặt trong tác phẩm :

Hương Bình Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thước [1962]

Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam từ thế kỷ 19-20 của Huỳnh Sanh Thông {1996}

Nữ Sĩ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Hiền [2005]

Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang.

Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến…

Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.

Bà ở vào thời Văn Học Lãng Mạn [1930-1945] những nhà thơ thuộc nhóm Dạ Đài, và nhóm Xuân Thu Nhã Tập, đã làm một luồng gió mới trong thơ, thơ dần thoát khỏi quan điểm “Thi Dĩ Ngôn Chí” hay ít ra chữ “Chí” mang một nghĩa sâu hơn và nhiều mặt hơn. Nó mang theo cả triết lý sống, đôi khi cũng ẩn dụ và viễn tưởng.

Thơ của Bà không thoát khỏi qui luật đó, chí ít cũng ở thời lãng mạn. Về sau, những thập niên 50-70 thi ca muốn thoát hẳn cái cũ, cái qui luật ràng buộc, gò bó… bắt thơ phải tuân thủ. Thơ phá cách, phá thể, thơ tự do bắt đầu xuất hiện nhiều, nhưng ở bà vẫn giữ được cái trầm lắng, nhẹ nhàng của thơ thời lãng mạn. Vần điệu và ý tưởng vẫn là chủ đạo trong thơ của bà.

Bà viết nhiều về tình yêu Nam – Nữ, lứa đôi, tình phụ mẫu, tình phu thê nhưng không thiếu những khắc khoải của phận người, những trăn trở suy tư cho thế sự. Về sau bà thiên về Phật giáo. Ngoài thơ bà còn viết tùy bút, xã luận.

Với dự định viết về thơ ca của bà, thú thật tôi đã run tay, kẻ hậu sinh như tôi không thể nào nhìn thấu suốt được nỗi lòng của bà đã gởi gắm trong thơ, cho mình, cho đời, cho nhân sinh.

Vả lại, thơ tự nó đã nói lên và giãi bày, tự nó xác nhận chỗ đứng, nơi hiện diện. Tự nó minh chứng sự có mặt trước người đọc.

Và vì lẽ đó, tôi xin được trích giới thiệu hai bài thơ, bà viết cách nhau 47 năm: -Một Cái Siết Tay- bài thứ nhất bà viết ở Nha Trang 1/1940, nói về những cảm xúc ban đầu khi gặp và yêu nhà văn B.Đ. Ái Mỹ. Đó, như một thông điệp của định mệnh.

Ở thủa ban đầu yêu nhau, trong thi ca thường là “nắm tay”, “cầm tay”, ít hay không thấy thi sĩ nào sử dụng từ “siết tay” như bà.

Cầm, Nắm, Nâng ..tay em .. tay của Nam –Nữ yêu nhau ở thủa ban đầu, đó là kỷ niệm theo suốt cuộc tình dài trăm năm, một cảm xúc hóa thành thanh âm vang mãi trong trái tim của hai người. Đó là sự va chạm truyền cảm tinh khôi và trinh khiết. Đó là sự bắt đầu của tình yêu và định mệnh …nhưng “siết tay” thì còn hơn thế, đó là lời thệ ước.

Xin hãy lắng lòng:

 

Một Cái Siết Tay

 

Vạn lời yêu dâng đầy trên bốn mắt

Muôn mê say run rẩy ở đôi môi

Trời! Chiều nay vũ trụ ở đâu rồi

Không thấy nữa khi đôi tay siết chặt

Vô hình chưa! Trong bốn làn tia mắt

Hồn anh sang quấn quít chạm hồn em

Run làm sao! Cảm giác rúng đôi tim

Trong cái siết của đôi bàn tay nóng

Em thu náo nức với niềm say

Thu cả tình đêm lẫn mộng ngày

Thu vạn nghìn lời âu yếm nữa

Cả tình sôi nổi xuống bàn tay

Em siết tay anh chuyền cảm giác

Những lời âu yếm rúng trên môi

Những lời náo nức trong tim thắm

Em gởi tay anh cả vạn lời.

 

46 năm sau bài thơ đầu, bà viết bài thứ hai -Hai Lần Siết Tay – cũng tại Nha Trang đầu năm 1967, khi phu quân nhắm mắt lìa đời. Cuộc tình từ cái siết tay đầu tiên đến 47 năm sau luôn là cuộc tình đẹp, đẹp mãi dù thời gian cứ trôi … Hai tráí tim hòa điệu, biết cùng nhận đắng cay của cuộc đời, cùng vượt nỗi gian nan …và biết cùng nhau giữ mãi lửa tình yêu ban đầu …Phu quân của bà - nhà văn B.Đ Ái Mỹ - bị tai biến liệt bên phải, chỉ còn bàn tay bên trái “ông dùng bàn tay trái níu tay người bạn đời, siết chặt” và “bình thản nhìn bà rồi lẳng lặng đi vào giấc hôn mê”.[1] Lần Tay Siết này là tiếng gào thét đớn đau ẩn khuất trong trái tim để trở thành nỗi tiếc thương khôn cùng. Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái [2] bà nuốt nỗi đau ly biệt vào lòng.

Rõ ràng lời thơ, cũng như bà, cũng nuốt đi niềm đau vào thanh âm khổ hạnh của kiếp người. Không còn cái “động”, cái háo hức của cái siết tay lần đầu…mà chỉ là cơn mê trong cái “Tỉnh”, cái trầm mặc. Tất cả trở thành một dòng khổ đau giấu kín nơi cõi lòng. Bà đã trải, đã sống, đã yêu và đã chín trong tư duy và trong cách thể hiện.

Hãy cảm xúc và chia sẻ:

 

Hai Lần Siết Tay

 

Từ cái siết tay ban đầu mở lối

Vườn duyên tình thắm thiết tuổi đôi mươi

Buổi cảm giao không thốt được nên lời

Tay chỉ nắm trong tay lời ước thệ

Chừ tay ấy bỗng nhiên thành tàn phế

Lời mong trao, môi khó chuyển nên lời

Bốn sáu năm từng chung khổ chia vui

Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái

Người đã khuất…đẹp ân tình lưu lại

Tóc màu sương vẫn quí gọi “giai nhân”

Nửa trăm năm như ngọc chuộng vàng nâng

Anh trang trọng giữa hai lần tay siết

Trọn một kiếp song đôi, chừ đoạn diệt

Vắt áo trần nhơ, giả hợp hình hài

Trời Lăng Nghiêm hay sắc giới Thiên Thai

Cầu linh phách nhẹ nương vào Bát Nhã.

 

Thơ của bà là cung đàn, nhưng không phải vang lên từ dây đàn mà từ nước mắt và máu của con tim.

Những dòng trên không phải “nhận đinh” hay “phê bình” mà là những lời chân thành của kẻ hậu sinh chiêm ngưỡng bà và chiêm nghiệm thi ca của bà..

 

[1] chú thích của các con

[2]trích Hai lần Tay Siết

 

*

 

2.

Nhà thơ THANH NHUNG

Cuối thập niên 50, chuyện có thơ được đăng ở tạp chí Phổ Thông, lại thêm có mặt trong hai tập thơ chung cùng một năm. Đó như một hiện tượng và Thanh Nhung đã trở thành nữ sĩ, rất trẻ được ngưỡng mộ. Với tính cách đó, sau hơn nửa thế kỷ, tôi nhìn lại.

 
thanh nhung

Bà sinh năm 1941 tại Nha Trang và nơi sinh cũng là tên: Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang. Bút hiệu: Thanh Nhung.

Bà là con cả của nữ thi sĩ Tâm Tấn và nhà văn B.Đ Ái Mỹ, thuộc dòng dõi vua Minh Mạng và thi hào Tuy Lý Vương.

Theo học Võ Tánh Nha Trang, Quốc Học Huế, Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

1963 – Du học Nhật, Mỹ. Năm 1973 lấy bằng Tiến Sĩ Đại Học California ở Berkeley với luận án: Vai Trò Truyền Thống của Phụ Nữ phản ánh trong văn học truyền khẩu và văn chương viết của Việt Nam.

Bà nói được 5 thứ tiếng, chu du 20 quốc gia, Giáo sư Đại Học của 4 nước: Malaysia, Mỹ, Nhật và Thái Lan.

 

Về sự nghiệp thi ca:

Năm 1958, Bà có thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bông Lúa rồi Phổ Thông của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ. Cùng năm này bà có mặt trong hai tập “Tiếng Thơ Miền Trung” với Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng ….và “Hoa Mười Phương” với Định Giang …Lúc đó bà mới 17 tuổi. Bà có thơ đăng thường xuyên ở Phổ Thông đến 1965. Những thập niên sau bà cộng tác với các báo và tạp chí nước ngoài như: Văn Học và Nghệ Thuật, Văn Học,Vietnam Culture Journal …và đã xuất bản một số sách viết bằng tiếng Anh trong đó có bộ tiểu thuyết 2 tập The Moon of Hòa Bình [1994] đồng tác giả với chồng là : William L.Pensinger.

Bà hiện sống cùng chồng ở Nha Trang .

 

Ở đây tôi xin nói -một chút- về thi ca mà không nói đến tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Việt hay tiếng Anh của bà. Gia tài thi ca của bà không nhiều, không đồ sộ, không nhiều đầu sách, nhiều trang in….Nó chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ đủ các thể loại bà viết từ 1958 đến 2000. Như một bức tranh khung nhỏ, khiêm nhường, được gắn ở khoảng không gian tĩnh lặng, lẻ loi, trong một thế giới trưng bày hoành tráng của thi ca đương đại, nhưng bước chân người thưởng ngoạn lại dừng lại -rất lâu- trước bức tranh khung nhỏ, lẻ loi ấy của bà.

Tôi vẫn không làm sao tìm được những sáng tác sau năm 2000 của bà .

Năm 1963 bà du học ở Nhật. Thời đó đi du học là chuyện cực hiếm, nó càng hiếm hơn khi dành cho giới nữ. Lúc đó bà 22 tuổi, một cánh chim non tung cánh vào bão táp của cuộc đời. Cuộc ra đi này, theo tôi, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca và cả cuộc đời của bà. Cuộc ra đi dài cho đến gần hết cuộc đời bà mới có cuộc -thật sự- trở về.

Đó là cuộc chia tay mà cuộc đời đã dành cho bà, như một định mệnh.

 

Về hình thức thể hiện:

Bà sử dụng hầu như hết các thể thơ: 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ chia đoạn, 4 chữ, lục bát, thể kết hợp và tự do…xuyên suốt trong quá trình sáng tác của bà. Đặc biệt là Thể Kết Hợp. Thoạt nhìn ta có thể lầm tưởng đó là thơ tự do, nhưng không, bài thơ tuân thủ qui tắc vần, ngữ pháp, ngữ nghĩa của từng thể thơ, nhưng không độc lập, riêng rẽ mà liên kết lại thống nhất âm điệu và ý tưởng. Có ít tác giả sử dụng thể kết hợp thành công như bà. Tôi xin đơn cử:

 

Chắp tay van gió nằm im

Đừng đưa vẳng mấy lời chim gọi đàn

Tiếng hồn vừa mở

Tiếng hồn than van

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại trong “Hoa Mười Phương”-1959]

 

Ba thể: lục bát, 4 chữ, 7 chữ trong một bài. Vần “an ‘ –câu 2: gọi đàn –câu 4: than van -câu 6: vội vàng. Đó là sợi dây kết nối, thống nhất của 3 thể loại trong một bài thơ. Không khó nhưng cũng không dễ để hình thành thanh âm xuyên suốt như vậy.

 

Về nội dung:

Người đọc không khó để nhận ra rằng, sáng tác của bà có hai thời kỳ, rất rõ, rất tách bạch .Thời kỳ đầu, từ trước 1958 đến tháng 4 năm 1963 Trong thời kỳ này bà còn chịu ảnh hưởng nhiều của thi ca lãng mạn [1932-1945,] về hình thức lẫn nội dung. Thơ chỉ nói đến cái tôi của chính mình, sự ích kỷ cần thiết cho giai đoạn mở đầu của một tác giả, viết về những cảm xúc rung động của mình và cho mình. Viết cái ở trong và riêng ta. Gần như hầu hết các nhà thơ khởi viết đều viết về tình yêu của chính mình, bà cũng không ngoại lệ. Dường như bà biết yêu rất sớm:

 

Tóc mây hò hẹn tuổi mười lăm

Mắt-đọng-sầu–tư vẫn khóc thầm.

 

Và cái bóng dáng tình yêu ban đầu ấy cứ lớn theo thòi gian, chập chờn rồi choáng ngợp trái tim, thi ca của bà bị cuốn theo. Mộng mơ. Hạnh phúc. Khổ đau. Giận hờn. Oán trách. Nỗi rung động và xúc động đầu đời bậc lên thành cung điệu, thành thơ. Nhưng, dù trong nỗi đau nào, cũng giữ được sự đằm thắm, dịu dàng, không phẫn nộ, không lộng từ…đúng như tâm hồn tĩnh lặng, sâu lắng của bà.

 

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại /Hoa Mười Phương, 1959]

 

Hai vỡ tan còn ghi kỷ niệm

Tình Yêu? Còn lại chút gì đâu

Ngày mai khi khép hoài đôi mắt

Ôm lấy niềm đơn xuống huyệt đài

[trích Kiếp Sầu/Sài Gòn 12/9/1961 ]

 

Ngăn-cách-cuộc-đời xâu xé hồn nhau

Sầu đã biến dòng thơ thành suối lệ

[trích Những Mùa Xuân – Sài Gòn 29/12/1961]

 

Bà thể hiện sự đau khổ tận cùng, tiếng thơ cũng chỉ là nổi khứng chịu số phận của riêng mình:

 

Xác thân vùi với niềm đau khổ

Là hết, là xong một cuộc đời

……….

Tỉnh giấc, trời ơi, hồn ngẩn ngơ

………….

Người xa - thương nhớ là dao chém

Từng nhát vào tim ứ tủi hờn

[trích Oán Trách /Phổ Thông số 88-9/1962]

 

Những cảm xúc, bâng khuâng, tò mò khám phá. Của đợi chờ mộng mơ. Của hạnh phúc ban đầu. Thời của tan vỡ, tiếc nuối, đau buồn, thơ của bà bấy giờ vẫn mang một sắc thái riêng: óng mượt và lung linh.

 

Thời kỳ từ 4/1963 trở về sau:

Cuộc chiến chống Pháp kết thúc 20/ 7/1954. Nhưng cuộc chiến ác liệt vẫn tiếp tục ở quê nhả. Trái tim nhỏ bé của bà, ở cách xa vạn dặm, qua một đại dương bao la, mãi tận phương trời …đã nghe và đã thổn thức. Bà bỗng ngộ ra rằng bấy lâu nay bà chìm đắm trong nỗi riêng của cõi lòng, của riêng bà, rất đỗi vị kỷ. Tâm sự đó bà gởi vào “Hướng Tâm Tư “ viết tại Tokyo ngày 25/4/1963.

 

Ôi những ngày xưa rất dại khờ

Tháng năm quằn quại khổ vì mơ

…………….

Một sớm niềm kiêu hãnh hiện về

Mang linh hồn khỏi ngục đa mê

Điềm nhiên dứt bỏ thời hoang dại

Có những lời thơ rất não nề

 

Cuối cùng, như một cánh bướm thoát ra khỏi kén, tung bay vào không gian, thơ bà đã mang thêm một ý nghĩa về cuộc chung của kiếp người. Bà dấn thêm một bước vào cảm xúc về nỗi khổ đau của đất nước, của quê hương, của đồng bào, và bà hạnh phúc với sự chuyển hướng này.

 

Hồn nở tình thương đẹp lạ lùng

Trao về linh khí của non sông.

Hạnh phúc trào dâng đến nghẹn lời

Nghe lòng chuyển hướng rộng chơi vơi

[trích Hướng Tâm TưTokyo 25/4/1963]

 

Thi ca của bà lúc này có thêm một mảng thi ca dấn thân, chất đấu tranh ẩn khuất trong những thương cảm, lo âu. Từ nơi xa xôi gởi về quê nhà. Nỗi lòng bà đã trải ra, tấm lòng bà đã xót thương, nước mắt bà đã rơi. Thơ của bà giờ đây đã mang tính chiến đấu, hy sinh và cống hiến cho quê hương hơn cái tôi của mình.

 

Xót xa nghe chuyện điêu tàn

Hỡi ơi! quê mẹ muôn vàn thương đau

[trích Khắc Khoải – Tokyo 29/91963]

Lòng đất quê hương quặn niềm ly tán

Cho nỗi hờn câm ngùn ngụt tinh cầu

……………….

Đất mẹ rưng rưng ôm những hình hài

[trích U Uất, Phổ Thông số 137, 11/1964]

 

Trái tim nhỏ bé, côi quạnh ở mãi phương trời xa tắp, đã nghe –không những tiếng bom rền đạn nổ, tiếng gào thét của quê hương. Bà còn nghe cả tiếng nỉ non, khấn nguyện, thầm thì của những người mẹ, tiếng khóc của trẻ thơ…

 

Nghe từ mẫu đêm nhìn đèn tâm sự

Hai tay gầy và mắt lệ xin ơn.

Cho hơi ấm của mùa xuân ấp ủ

Tình thương yêu làm nhẹ mối căm hờn

[trích Mùa Xuân Mong Đợi – Berkeley 11/11/1968 ]

 

Thời kỳ này, cảm xúc dâng trào choáng ngợp, đè nén và bộc phát thành thơ, nó phá vỡ hết qui tắc, niêm luật, gò bó của thơ lãng mạn, thơ mới. Bà vượt qua, thoát khỏi và hầu hết tác phẩm thời kỳ này bà viết theo thể thơ Tự Do. Từ cái phóng khoáng, thênh thang, cái cởi mở của thơ tự do, người viết mới viết hết ý tưởng của mình muốn gởi gắm. Tuy nhiên “vần” vẫn được bà sử dụng như cách tạo âm, thơ bà vẫn mang tính nhạc điệu, tôi nghĩ, bà đã áp đặt tu-từ-mới cho thơ tự do.

 

Mẹ già không nhặt xác con

Đem xây nền dân chủ

Những xác co ro trong đất mẹ hao mòn

Nỗi khao khát âm thầm thôi có bao giờ tự thú

[trích Xin Cúi Xuống Thật GầnKuala Lumpur , 20/1/1975]

 

Có người nói thơ “là cấu trúc của trí tưởng tượng” tôi hiểu đại để là “trí tưởng tượng có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ”. Nó có thể đúng ở một “diện” nào đó của một giai đoạn. Tuyệt nhiên nó không phù hợp với thơ của bà trong thời kỳ này.Cái cảm xúc có thật và có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ. Tiếng động của âm thanh, của súng đạn, của xương máu, đó là sự hiện-hữu-có-thật…làm nên cảm xúc, bà mới viết thành thơ. Thơ gần như hoàn toàn không cần và vượt khỏi trí tưởng tượng.

Và thơ của bà giai đoạn này là “Thơ, đó là những cách đi tới nơi tận cùng của ý thức” [Laurence folinghetti –nhóm nhà thơ-Không Tùy Thời-1950 Hoa Kỳ ] và “Ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống “[Luân Hoán]. Tôi nghĩ như vậy.

Bà cũng như người mẹ -nữ sĩ Tâm Tấn- hội đủ: Tài Năng, Đức Hạnh và Thanh Sắc.

 

Ngày về

Ra đi ở tuổi 22, phải gần hết cuộc đời bà mới -thật sự- trở về. Căn nhà nơi bà sinh ra giờ đây mái đã rêu phong, vòm bông giấy trước nhà đã không còn, tiếng cười cũng vắng xa. Đàn em, mỗi nguời một phận, tứ tán khắp phương trời. Chốn cũ, nay chỉ còn hình bóng lẻ loi, đơn độc, âm thầm của mẹ già. Và, ôi những dấu chân ngày nào đã in trên bờ cát trắng của thuở lên mười, gói đậu phụng rang gởi trọn nỗi lòng của ai đã trao thời niên thiếu….cùng với tiếng sóng của biển khơi thì thầm…của một thời đã xa...rất xa.

Thời gian có thể đã xóa mất đi biết bao điều của đời người nhưng tôi đoan chắc rằng những kỷ niệm kia còn mãi nơi cõi lòng bà, ngày nào bà còn nghe tiếng sóng thì thầm, còn nhìn thấy biển quê hương.

 

Chu Trầm Nguyên Minh và Nguyễn Tùng Vân

Sài Gòn 1/2013
http://www.luanhoan.net/gocchung2013/html/bm%205-4-13%2015.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4392)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3439)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4154)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10991)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10949)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3198)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5174)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3503)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3580)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3359)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]