Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa trong vườn nhà

11/08/201809:29(Xem: 11615)
Hoa trong vườn nhà
Hoa trong vườn nhà
Chu Trm Nguyên Minh
 Nguyn Tùng Vân
 

 

 

 

 

 

Về Nha Trang, những người yêu văn chương chữ nghĩa, thập niên 60 đều biết và nghĩ về một gia đình có đến hơn một nửa thành viên hoạt động văn học nghệ thuật, một gia đình đặc biệt hiếm có ở Việt Nam .

Tôi xin được trân trọng viết về hai người thuộc hai thế hệ văn học của gia đình này.

 

Bắt đầu là:

 

1.

Nhà thơ TÂM TẤN

 Nu Si Tam Tan1 (1)

 

 

Bà sinh năm 1921 tại Đà Nẵng. Làm thơ năm 14 tuổi. Năm 1937, lúc bà 16 tuổi đã có thơ trên báo Tam Bảo. Và từ đó, bà xuất hiện: Trong Khuê Phòng, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Đàn Bà, Liên Hoa, Tự Do, Tiếng Dội, Giác Ngộ…

Bút hiệu khác: Trinh Tiên, Trinh Nữ. Khi viết tùy bút, xã luận, bà ký: Lan Xuân, Diễm Bút.

Bà là bạn của: Phạm Huy Thông, Yến Lan, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên. Và là nghĩa muội của cố thi sĩ Quách Tấn.

Bà đại diện miền Trung, nữ sĩ Thụy An miền Bắc, và Mộng Tuyết miền Nam, kết nghĩa thành ba chị em văn nghệ đại diện ba miền.

Tác phẩm đã in:

Tình Thơ [1944 - in chung với phu quân, nhà văn Bửu    

                                                                     Đáo Ái Mỹ]

Hương Đạo Hạnh [1974]

Cuộc Đời Lọc Những Tinh Sương [2004]

Muôn Vàn Hương Sắc [2012]

Có mặt trong tác phẩm :

Hương Bình Thi Phẩm của Hoàng Trọng Thước [1962]

Tuyển Tập Thi Ca Việt Nam từ thế kỷ 19-20 của Huỳnh Sanh Thông {1996}

Nữ Sĩ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Hiền [2005]

Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang.

Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến…

Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.

Bà ở vào thời Văn Học Lãng Mạn [1930-1945] những nhà thơ thuộc nhóm Dạ Đài, và nhóm Xuân Thu Nhã Tập, đã làm một luồng gió mới trong thơ, thơ dần thoát khỏi quan điểm “Thi Dĩ Ngôn Chí” hay ít ra chữ “Chí” mang một nghĩa sâu hơn và nhiều mặt hơn. Nó mang theo cả triết lý sống, đôi khi cũng ẩn dụ và viễn tưởng.

Thơ của Bà không thoát khỏi qui luật đó, chí ít cũng ở thời lãng mạn. Về sau, những thập niên 50-70 thi ca muốn thoát hẳn cái cũ, cái qui luật ràng buộc, gò bó… bắt thơ phải tuân thủ. Thơ phá cách, phá thể, thơ tự do bắt đầu xuất hiện nhiều, nhưng ở bà vẫn giữ được cái trầm lắng, nhẹ nhàng của thơ thời lãng mạn. Vần điệu và ý tưởng vẫn là chủ đạo trong thơ của bà.

Bà viết nhiều về tình yêu Nam – Nữ, lứa đôi, tình phụ mẫu, tình phu thê nhưng không thiếu những khắc khoải của phận người, những trăn trở suy tư cho thế sự. Về sau bà thiên về Phật giáo. Ngoài thơ bà còn viết tùy bút, xã luận.

Với dự định viết về thơ ca của bà, thú thật tôi đã run tay, kẻ hậu sinh như tôi không thể nào nhìn thấu suốt được nỗi lòng của bà đã gởi gắm trong thơ, cho mình, cho đời, cho nhân sinh.

Vả lại, thơ tự nó đã nói lên và giãi bày, tự nó xác nhận chỗ đứng, nơi hiện diện. Tự nó minh chứng sự có mặt trước người đọc.

Và vì lẽ đó, tôi xin được trích giới thiệu hai bài thơ, bà viết cách nhau 47 năm: -Một Cái Siết Tay- bài thứ nhất bà viết ở Nha Trang 1/1940, nói về những cảm xúc ban đầu khi gặp và yêu nhà văn B.Đ. Ái Mỹ. Đó, như một thông điệp của định mệnh.

Ở thủa ban đầu yêu nhau, trong thi ca thường là “nắm tay”, “cầm tay”, ít hay không thấy thi sĩ nào sử dụng từ “siết tay” như bà.

Cầm, Nắm, Nâng ..tay em .. tay của Nam –Nữ yêu nhau ở thủa ban đầu, đó là kỷ niệm theo suốt cuộc tình dài trăm năm, một cảm xúc hóa thành thanh âm vang mãi trong trái tim của hai người. Đó là sự va chạm truyền cảm tinh khôi và trinh khiết. Đó là sự bắt đầu của tình yêu và định mệnh …nhưng “siết tay” thì còn hơn thế, đó là lời thệ ước.

Xin hãy lắng lòng:

 

Một Cái Siết Tay

 

Vạn lời yêu dâng đầy trên bốn mắt

Muôn mê say run rẩy ở đôi môi

Trời! Chiều nay vũ trụ ở đâu rồi

Không thấy nữa khi đôi tay siết chặt

Vô hình chưa! Trong bốn làn tia mắt

Hồn anh sang quấn quít chạm hồn em

Run làm sao! Cảm giác rúng đôi tim

Trong cái siết của đôi bàn tay nóng

Em thu náo nức với niềm say

Thu cả tình đêm lẫn mộng ngày

Thu vạn nghìn lời âu yếm nữa

Cả tình sôi nổi xuống bàn tay

Em siết tay anh chuyền cảm giác

Những lời âu yếm rúng trên môi

Những lời náo nức trong tim thắm

Em gởi tay anh cả vạn lời.

 

46 năm sau bài thơ đầu, bà viết bài thứ hai -Hai Lần Siết Tay – cũng tại Nha Trang đầu năm 1967, khi phu quân nhắm mắt lìa đời. Cuộc tình từ cái siết tay đầu tiên đến 47 năm sau luôn là cuộc tình đẹp, đẹp mãi dù thời gian cứ trôi … Hai tráí tim hòa điệu, biết cùng nhận đắng cay của cuộc đời, cùng vượt nỗi gian nan …và biết cùng nhau giữ mãi lửa tình yêu ban đầu …Phu quân của bà - nhà văn B.Đ Ái Mỹ - bị tai biến liệt bên phải, chỉ còn bàn tay bên trái “ông dùng bàn tay trái níu tay người bạn đời, siết chặt” và “bình thản nhìn bà rồi lẳng lặng đi vào giấc hôn mê”.[1] Lần Tay Siết này là tiếng gào thét đớn đau ẩn khuất trong trái tim để trở thành nỗi tiếc thương khôn cùng. Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái [2] bà nuốt nỗi đau ly biệt vào lòng.

Rõ ràng lời thơ, cũng như bà, cũng nuốt đi niềm đau vào thanh âm khổ hạnh của kiếp người. Không còn cái “động”, cái háo hức của cái siết tay lần đầu…mà chỉ là cơn mê trong cái “Tỉnh”, cái trầm mặc. Tất cả trở thành một dòng khổ đau giấu kín nơi cõi lòng. Bà đã trải, đã sống, đã yêu và đã chín trong tư duy và trong cách thể hiện.

Hãy cảm xúc và chia sẻ:

 

Hai Lần Siết Tay

 

Từ cái siết tay ban đầu mở lối

Vườn duyên tình thắm thiết tuổi đôi mươi

Buổi cảm giao không thốt được nên lời

Tay chỉ nắm trong tay lời ước thệ

Chừ tay ấy bỗng nhiên thành tàn phế

Lời mong trao, môi khó chuyển nên lời

Bốn sáu năm từng chung khổ chia vui

Ngày vĩnh biệt, anh siết bằng tay trái

Người đã khuất…đẹp ân tình lưu lại

Tóc màu sương vẫn quí gọi “giai nhân”

Nửa trăm năm như ngọc chuộng vàng nâng

Anh trang trọng giữa hai lần tay siết

Trọn một kiếp song đôi, chừ đoạn diệt

Vắt áo trần nhơ, giả hợp hình hài

Trời Lăng Nghiêm hay sắc giới Thiên Thai

Cầu linh phách nhẹ nương vào Bát Nhã.

 

Thơ của bà là cung đàn, nhưng không phải vang lên từ dây đàn mà từ nước mắt và máu của con tim.

Những dòng trên không phải “nhận đinh” hay “phê bình” mà là những lời chân thành của kẻ hậu sinh chiêm ngưỡng bà và chiêm nghiệm thi ca của bà..

 

[1] chú thích của các con

[2]trích Hai lần Tay Siết

 

*

 

2.

Nhà thơ THANH NHUNG

Cuối thập niên 50, chuyện có thơ được đăng ở tạp chí Phổ Thông, lại thêm có mặt trong hai tập thơ chung cùng một năm. Đó như một hiện tượng và Thanh Nhung đã trở thành nữ sĩ, rất trẻ được ngưỡng mộ. Với tính cách đó, sau hơn nửa thế kỷ, tôi nhìn lại.

 
thanh nhung

Bà sinh năm 1941 tại Nha Trang và nơi sinh cũng là tên: Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang. Bút hiệu: Thanh Nhung.

Bà là con cả của nữ thi sĩ Tâm Tấn và nhà văn B.Đ Ái Mỹ, thuộc dòng dõi vua Minh Mạng và thi hào Tuy Lý Vương.

Theo học Võ Tánh Nha Trang, Quốc Học Huế, Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

1963 – Du học Nhật, Mỹ. Năm 1973 lấy bằng Tiến Sĩ Đại Học California ở Berkeley với luận án: Vai Trò Truyền Thống của Phụ Nữ phản ánh trong văn học truyền khẩu và văn chương viết của Việt Nam.

Bà nói được 5 thứ tiếng, chu du 20 quốc gia, Giáo sư Đại Học của 4 nước: Malaysia, Mỹ, Nhật và Thái Lan.

 

Về sự nghiệp thi ca:

Năm 1958, Bà có thơ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bông Lúa rồi Phổ Thông của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ. Cùng năm này bà có mặt trong hai tập “Tiếng Thơ Miền Trung” với Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng ….và “Hoa Mười Phương” với Định Giang …Lúc đó bà mới 17 tuổi. Bà có thơ đăng thường xuyên ở Phổ Thông đến 1965. Những thập niên sau bà cộng tác với các báo và tạp chí nước ngoài như: Văn Học và Nghệ Thuật, Văn Học,Vietnam Culture Journal …và đã xuất bản một số sách viết bằng tiếng Anh trong đó có bộ tiểu thuyết 2 tập The Moon of Hòa Bình [1994] đồng tác giả với chồng là : William L.Pensinger.

Bà hiện sống cùng chồng ở Nha Trang .

 

Ở đây tôi xin nói -một chút- về thi ca mà không nói đến tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Việt hay tiếng Anh của bà. Gia tài thi ca của bà không nhiều, không đồ sộ, không nhiều đầu sách, nhiều trang in….Nó chỉ vỏn vẹn có 50 bài thơ đủ các thể loại bà viết từ 1958 đến 2000. Như một bức tranh khung nhỏ, khiêm nhường, được gắn ở khoảng không gian tĩnh lặng, lẻ loi, trong một thế giới trưng bày hoành tráng của thi ca đương đại, nhưng bước chân người thưởng ngoạn lại dừng lại -rất lâu- trước bức tranh khung nhỏ, lẻ loi ấy của bà.

Tôi vẫn không làm sao tìm được những sáng tác sau năm 2000 của bà .

Năm 1963 bà du học ở Nhật. Thời đó đi du học là chuyện cực hiếm, nó càng hiếm hơn khi dành cho giới nữ. Lúc đó bà 22 tuổi, một cánh chim non tung cánh vào bão táp của cuộc đời. Cuộc ra đi này, theo tôi, đã ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca và cả cuộc đời của bà. Cuộc ra đi dài cho đến gần hết cuộc đời bà mới có cuộc -thật sự- trở về.

Đó là cuộc chia tay mà cuộc đời đã dành cho bà, như một định mệnh.

 

Về hình thức thể hiện:

Bà sử dụng hầu như hết các thể thơ: 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ chia đoạn, 4 chữ, lục bát, thể kết hợp và tự do…xuyên suốt trong quá trình sáng tác của bà. Đặc biệt là Thể Kết Hợp. Thoạt nhìn ta có thể lầm tưởng đó là thơ tự do, nhưng không, bài thơ tuân thủ qui tắc vần, ngữ pháp, ngữ nghĩa của từng thể thơ, nhưng không độc lập, riêng rẽ mà liên kết lại thống nhất âm điệu và ý tưởng. Có ít tác giả sử dụng thể kết hợp thành công như bà. Tôi xin đơn cử:

 

Chắp tay van gió nằm im

Đừng đưa vẳng mấy lời chim gọi đàn

Tiếng hồn vừa mở

Tiếng hồn than van

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại trong “Hoa Mười Phương”-1959]

 

Ba thể: lục bát, 4 chữ, 7 chữ trong một bài. Vần “an ‘ –câu 2: gọi đàn –câu 4: than van -câu 6: vội vàng. Đó là sợi dây kết nối, thống nhất của 3 thể loại trong một bài thơ. Không khó nhưng cũng không dễ để hình thành thanh âm xuyên suốt như vậy.

 

Về nội dung:

Người đọc không khó để nhận ra rằng, sáng tác của bà có hai thời kỳ, rất rõ, rất tách bạch .Thời kỳ đầu, từ trước 1958 đến tháng 4 năm 1963 Trong thời kỳ này bà còn chịu ảnh hưởng nhiều của thi ca lãng mạn [1932-1945,] về hình thức lẫn nội dung. Thơ chỉ nói đến cái tôi của chính mình, sự ích kỷ cần thiết cho giai đoạn mở đầu của một tác giả, viết về những cảm xúc rung động của mình và cho mình. Viết cái ở trong và riêng ta. Gần như hầu hết các nhà thơ khởi viết đều viết về tình yêu của chính mình, bà cũng không ngoại lệ. Dường như bà biết yêu rất sớm:

 

Tóc mây hò hẹn tuổi mười lăm

Mắt-đọng-sầu–tư vẫn khóc thầm.

 

Và cái bóng dáng tình yêu ban đầu ấy cứ lớn theo thòi gian, chập chờn rồi choáng ngợp trái tim, thi ca của bà bị cuốn theo. Mộng mơ. Hạnh phúc. Khổ đau. Giận hờn. Oán trách. Nỗi rung động và xúc động đầu đời bậc lên thành cung điệu, thành thơ. Nhưng, dù trong nỗi đau nào, cũng giữ được sự đằm thắm, dịu dàng, không phẫn nộ, không lộng từ…đúng như tâm hồn tĩnh lặng, sâu lắng của bà.

 

Bốn phương trời đất dường tăm tối

Sao khóc tình yêu, chết vội vàng

[trích Hoang Dại /Hoa Mười Phương, 1959]

 

Hai vỡ tan còn ghi kỷ niệm

Tình Yêu? Còn lại chút gì đâu

Ngày mai khi khép hoài đôi mắt

Ôm lấy niềm đơn xuống huyệt đài

[trích Kiếp Sầu/Sài Gòn 12/9/1961 ]

 

Ngăn-cách-cuộc-đời xâu xé hồn nhau

Sầu đã biến dòng thơ thành suối lệ

[trích Những Mùa Xuân – Sài Gòn 29/12/1961]

 

Bà thể hiện sự đau khổ tận cùng, tiếng thơ cũng chỉ là nổi khứng chịu số phận của riêng mình:

 

Xác thân vùi với niềm đau khổ

Là hết, là xong một cuộc đời

……….

Tỉnh giấc, trời ơi, hồn ngẩn ngơ

………….

Người xa - thương nhớ là dao chém

Từng nhát vào tim ứ tủi hờn

[trích Oán Trách /Phổ Thông số 88-9/1962]

 

Những cảm xúc, bâng khuâng, tò mò khám phá. Của đợi chờ mộng mơ. Của hạnh phúc ban đầu. Thời của tan vỡ, tiếc nuối, đau buồn, thơ của bà bấy giờ vẫn mang một sắc thái riêng: óng mượt và lung linh.

 

Thời kỳ từ 4/1963 trở về sau:

Cuộc chiến chống Pháp kết thúc 20/ 7/1954. Nhưng cuộc chiến ác liệt vẫn tiếp tục ở quê nhả. Trái tim nhỏ bé của bà, ở cách xa vạn dặm, qua một đại dương bao la, mãi tận phương trời …đã nghe và đã thổn thức. Bà bỗng ngộ ra rằng bấy lâu nay bà chìm đắm trong nỗi riêng của cõi lòng, của riêng bà, rất đỗi vị kỷ. Tâm sự đó bà gởi vào “Hướng Tâm Tư “ viết tại Tokyo ngày 25/4/1963.

 

Ôi những ngày xưa rất dại khờ

Tháng năm quằn quại khổ vì mơ

…………….

Một sớm niềm kiêu hãnh hiện về

Mang linh hồn khỏi ngục đa mê

Điềm nhiên dứt bỏ thời hoang dại

Có những lời thơ rất não nề

 

Cuối cùng, như một cánh bướm thoát ra khỏi kén, tung bay vào không gian, thơ bà đã mang thêm một ý nghĩa về cuộc chung của kiếp người. Bà dấn thêm một bước vào cảm xúc về nỗi khổ đau của đất nước, của quê hương, của đồng bào, và bà hạnh phúc với sự chuyển hướng này.

 

Hồn nở tình thương đẹp lạ lùng

Trao về linh khí của non sông.

Hạnh phúc trào dâng đến nghẹn lời

Nghe lòng chuyển hướng rộng chơi vơi

[trích Hướng Tâm TưTokyo 25/4/1963]

 

Thi ca của bà lúc này có thêm một mảng thi ca dấn thân, chất đấu tranh ẩn khuất trong những thương cảm, lo âu. Từ nơi xa xôi gởi về quê nhà. Nỗi lòng bà đã trải ra, tấm lòng bà đã xót thương, nước mắt bà đã rơi. Thơ của bà giờ đây đã mang tính chiến đấu, hy sinh và cống hiến cho quê hương hơn cái tôi của mình.

 

Xót xa nghe chuyện điêu tàn

Hỡi ơi! quê mẹ muôn vàn thương đau

[trích Khắc Khoải – Tokyo 29/91963]

Lòng đất quê hương quặn niềm ly tán

Cho nỗi hờn câm ngùn ngụt tinh cầu

……………….

Đất mẹ rưng rưng ôm những hình hài

[trích U Uất, Phổ Thông số 137, 11/1964]

 

Trái tim nhỏ bé, côi quạnh ở mãi phương trời xa tắp, đã nghe –không những tiếng bom rền đạn nổ, tiếng gào thét của quê hương. Bà còn nghe cả tiếng nỉ non, khấn nguyện, thầm thì của những người mẹ, tiếng khóc của trẻ thơ…

 

Nghe từ mẫu đêm nhìn đèn tâm sự

Hai tay gầy và mắt lệ xin ơn.

Cho hơi ấm của mùa xuân ấp ủ

Tình thương yêu làm nhẹ mối căm hờn

[trích Mùa Xuân Mong Đợi – Berkeley 11/11/1968 ]

 

Thời kỳ này, cảm xúc dâng trào choáng ngợp, đè nén và bộc phát thành thơ, nó phá vỡ hết qui tắc, niêm luật, gò bó của thơ lãng mạn, thơ mới. Bà vượt qua, thoát khỏi và hầu hết tác phẩm thời kỳ này bà viết theo thể thơ Tự Do. Từ cái phóng khoáng, thênh thang, cái cởi mở của thơ tự do, người viết mới viết hết ý tưởng của mình muốn gởi gắm. Tuy nhiên “vần” vẫn được bà sử dụng như cách tạo âm, thơ bà vẫn mang tính nhạc điệu, tôi nghĩ, bà đã áp đặt tu-từ-mới cho thơ tự do.

 

Mẹ già không nhặt xác con

Đem xây nền dân chủ

Những xác co ro trong đất mẹ hao mòn

Nỗi khao khát âm thầm thôi có bao giờ tự thú

[trích Xin Cúi Xuống Thật GầnKuala Lumpur , 20/1/1975]

 

Có người nói thơ “là cấu trúc của trí tưởng tượng” tôi hiểu đại để là “trí tưởng tượng có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ”. Nó có thể đúng ở một “diện” nào đó của một giai đoạn. Tuyệt nhiên nó không phù hợp với thơ của bà trong thời kỳ này.Cái cảm xúc có thật và có trước ngôn ngữ thi ca, có trước thơ. Tiếng động của âm thanh, của súng đạn, của xương máu, đó là sự hiện-hữu-có-thật…làm nên cảm xúc, bà mới viết thành thơ. Thơ gần như hoàn toàn không cần và vượt khỏi trí tưởng tượng.

Và thơ của bà giai đoạn này là “Thơ, đó là những cách đi tới nơi tận cùng của ý thức” [Laurence folinghetti –nhóm nhà thơ-Không Tùy Thời-1950 Hoa Kỳ ] và “Ngôn ngữ thi ca là ngôn ngữ của cuộc sống “[Luân Hoán]. Tôi nghĩ như vậy.

Bà cũng như người mẹ -nữ sĩ Tâm Tấn- hội đủ: Tài Năng, Đức Hạnh và Thanh Sắc.

 

Ngày về

Ra đi ở tuổi 22, phải gần hết cuộc đời bà mới -thật sự- trở về. Căn nhà nơi bà sinh ra giờ đây mái đã rêu phong, vòm bông giấy trước nhà đã không còn, tiếng cười cũng vắng xa. Đàn em, mỗi nguời một phận, tứ tán khắp phương trời. Chốn cũ, nay chỉ còn hình bóng lẻ loi, đơn độc, âm thầm của mẹ già. Và, ôi những dấu chân ngày nào đã in trên bờ cát trắng của thuở lên mười, gói đậu phụng rang gởi trọn nỗi lòng của ai đã trao thời niên thiếu….cùng với tiếng sóng của biển khơi thì thầm…của một thời đã xa...rất xa.

Thời gian có thể đã xóa mất đi biết bao điều của đời người nhưng tôi đoan chắc rằng những kỷ niệm kia còn mãi nơi cõi lòng bà, ngày nào bà còn nghe tiếng sóng thì thầm, còn nhìn thấy biển quê hương.

 

Chu Trầm Nguyên Minh và Nguyễn Tùng Vân

Sài Gòn 1/2013
http://www.luanhoan.net/gocchung2013/html/bm%205-4-13%2015.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 4920)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
03/09/2021(Xem: 7271)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
31/08/2021(Xem: 7757)
Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch. Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ. Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn
25/08/2021(Xem: 8473)
Do sự cố vấn chỉ đạo của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Hội Đồng Hoằng Pháp của chúng con/chúng tôi rất hoan hỷ để kính trình Quý Ngài và Quý Vị chương trình giảng dạy tiếng Phạn cơ bản cho Tăng Ni cũng như Quý Phật Tử nào có tâm muốn trau dồi Phạn ngữ trên hệ thống Online như thư chiêu sinh của Giáo Sư Đỗ Quốc Bảo có gửi kèm theo thư nầy. Mục đích chính là để tiếp nối truyền thống đọc được kinh điển trực tiếp từ tiếng Phạn và có khả năng đọc cũng như dịch giải những bản Kinh bằng tiếng Phạn về sau nầy; nên bắt đầu từ tháng 9 năm 2021 việc chiêu sinh được thực hiện, nếu số lượng Tăng Ni và Phật Tử ghi danh đầy đủ như về số lượng và những điểm yêu cầu khác cho một người muốn học Phạn ngữ (xin xem điều kiện có gửi kèm ngay bên dưới). Vậy kính xin Quý Ngài tạo điều kiện cho tử đệ của mình tham gia học ngôn ngữ nầy để tiếp nối con đường của những bậc tiền nhân đã đi trước. Việc học nầy không hạn chế là Tăng Ni hay Phật Tử, miễn sao Quý Vị đáp ứng thỏa đáng được nhu cầu cần có và đủ của một người
23/08/2021(Xem: 2622)
Sau giờ tan trường, Dung thong thả đạp xe về nhà dọc theo đại lộ Thống Nhất. Đến ngã tư Thống Nhất-Hai Bà Trưng gặp đèn đỏ, Dung rẽ phải về hướng Tân Định. Với mái tóc thề đen mướt xõa trên vai áo dài màu tím của trường Nữ Trưng Vương làm cho nhiều người đang chờ đèn xanh không khỏi chú ý. Vài phút sau, bỗng có một chiếc xe Jeep chạy qua mặt Dung rồi dừng lại. Dung đạp xe đến gần, bất ngờ một thanh niên trong bộ quân phục sĩ quan Hải quân màu trắng từ trên xe nhảy xuống chặn làm Dung hốt hoảng dừng lại, lảo đảo suýt ngã xe. Anh chàng vội vàng đỡ xe cho Dung và nói: - Xin lỗi cô về cử chỉ đường đột của tôi. Cô cho tôi hỏi thăm, cô có phải là Dung, người Phan Rang không? - Xin lỗi, anh là ai mà hỏi tôi như thế? - Tôi là Thanh, bạn ngày xưa của Đạt, anh của Dung… - Vậy sao?… Dung chau mày, cơn bàng hoàng sợ sệt chưa dứt, trong đầu cố nhớ lại vì đã lâu lắm rồi không nghe anh Đạt nhắc đến. Thanh giải thích thêm để trấn an và chờ cho Dung hồi tưởng
23/08/2021(Xem: 3156)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên. Cây phong đầu ngõ lại chuẩn bị trổ sắc đỏ ối như mọi năm. Người đi xa từ những mùa thu trước, sẽ không trở về. Những người bạn lâu không gặp, thư gửi đi bị trả lại, nhắn tin điện thoại không thấy trả lời. Có lẽ cũng đã ra đi, không lời từ biệt.
19/08/2021(Xem: 7572)
Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm. Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp. Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh. Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.
17/08/2021(Xem: 7450)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
06/08/2021(Xem: 9618)
Cũng như chuông, trống cũng được coi như là một loại pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của đa số dân tộc theo Phật giáo. Phật tử Việt Nam chúng ta rất gần gũi với thanh âm ngân vang thâm trầm của tiếng chuông; tiếng trống thì lại dồn dập như thôi thúc lòng người...Tại các ngôi chùa, trống Bát Nhã được đánh lên là để cung thỉnh Chư Phật, Chư Bồ Tát quang giáng đạo tràng chứng tri buổi lễ. Thông thường trống Bát Nhã được đánh lên vào ngày lễ Sám hối và trong những ngày Đại lễ. Ba hồi chuông trống Bát Nhã trổi lên để cung thỉnh Chư Phật và cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni quang giáng đạo tràng, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nên lắng lòng, buông bỏ mọi tạp niệm. Bà kệ trống Bát Nhã được đọc như sau: Bát Nhã hội Bát Nhã hội Bát Nhã hội Thỉnh Phật thượng đường Đại chúng đồng văn Bát Nhã âm Phổ nguyện pháp giới Đẳng hữu tình Nhập Bát Nhã Ba La Mật môn Ba La Mật môn Ba La Mật môn.
05/08/2021(Xem: 6515)
Trước đây Tôi không hề nghĩ rằng: “mình sẽ có ngày trình pháp với Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng sau mỗi bài pháp thoại của Ngài”, dù cho tôi không mang một tư tưởng phân biệt Nam Tông và Bắc Tông, nhưng có lẽ tri thức tôi có rất nhiều sai lầm và vướng mắc do không tiếp xúc nhiều với các đạo tràng, mà chỉ quẩn quanh đọc kinh sách và chỉ là cái túi đựng sách! Có ngờ đâu đại dịch của thế kỷ 21 bắt đầu....theo như đa số mọi người lầm tưởng (trong đó có tôi) ....chỉ là cơn bão thoáng qua, không ngờ đã diễn biến càng ngày càng trầm trọng. Và với lòng từ bi, TT Giảng Sư đã tổ chức các buổi nghe pháp thoại online và ...với thì giờ nhàn rỗi trong những ngày bị lockdown, tôi đã chăm chú nghe từ một vài lần trong tuần sau đó, đổi thành liên tục mỗi ngày và bắt đầu nghiện ... khi thiếu vắng mỗi khi Giảng Sư có Phật Sự bên ngoài ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]