Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

03/04/201313:57(Xem: 4365)
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

house

AI ĐEM QUÁN TRỌ
MÀ NGĂN NẺO VỀ?


*Lưu Tường Quang




Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn:

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.

Quán trọ là nơi tạm dung của người xa xứ. Hầu hết chúng ta là những người đang sống lưu vong và các quốc gia định cư, trong ý nghĩa nào đó cũng mang tính chất của một quán trọ bên đường. Tâm cảm nầy không phải duy nhất cho người Việt nam mà hầu hết di dân, nhất là người tị nạn khắp nơi trên thế giới đều chia sẻ trạng thái tâm lý nầy. Enrico Marsias, ca sĩ Pháp gốc Hi Lạp, đã mô tả tâm trạng nầy thật tuyệt vời qua bài hát Adieu Mon Pays:

J’ai quitté mon pays

J’ai quitté ma maison

Ma vie, ma triste vie

Se traine sans raison.

Thế nhưng tại sao quán trọlại ngăn nẻo về? Và bao giờ thì quán trọhay nhà có thể trở thànhtổ ấm Home, Sweet Home?

Khác với các cộng đồng di dân, người Việt hải ngoại là cộng đồng tị nạn, tương tự như các cộng đồng Đông Âu trước khi chế độ Liên Sô sụp đổ. Sau 30 năm định cư, phần đông người Việt đã ổn định đời sống vật chất với nhà cao cửa rộng, nhưng tổ ấmtheo nghĩa văn hóa tình cảm Home, Sweet Home của thi sĩ Mỹ John Howard Payne (1791- 1852) rất phổ cập trong thời kỳ Chiến Tranh Nam Bắc Hoa Kỳ, thì mức độ thành công của chúng ta như thế nào?

Tại các quốc gia di dân như Hoa Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi và New Zealand, nhận định qui ước là di dân hưởng được tinh túy của hai nền văn hóa - của đất nước cội nguồn mà họ mang theo và của quốc gia định cư mà họ tiếp cận. Qui luật nào cũng có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, tôi không nghĩ rằng nhận định nầy phản ánh đúng với thực tế của phần đông gia đình di dân và người tị nạn, cá biệt là gia đình người Việt nam.

Theo nhận xét của tôi qua kinh nghiệm làm việc tại Bộ Di Trú và Văn Hóa Đa Nguyên liên bang trước kia và Hệ Thống Phát Thanh quốc gia SBS Radio hiện nay, Về Nguồntheo nghĩa duy trì truyền thống văn hóa là một khuynh hướng tự nhiên của tập thể người sinh đẻ ở nước ngoài. Về nguồn không nhất thiết chỉ đơn thuần là những chuyến đi thăm viếng du lịch quê xưa mà là hành-trình-tình-cảm-tri-thức-tái-kết với nền văn hóa cũ.Với thế hệ thứ nhất, người Việt sống trong hoài niệm và nỗ lực tái tạo hình ảnh văn hóa cũ trong môi trường mới. Nơi nào có người Việt là nơi đó có Hội Chợ Tết; nơi nào có Phật tử là nơi đó có Chùa Việt nam và Lễ Vu Lan Báo Hiếu. Trên bình diện cá nhân, người Việt nào càng có nhiều phương tiện vật chất là tư gia của họ càng có nhiều sắc thái Việt nam về mặt biểu tượng bên ngoài cho đến những trang trí bên trong như bàn thờ ông bà, gia tiên, những bức họa sơn dầu, bức tranh sơn mài trên tường và bàn ghế phòng khách.

Tiến sĩ Mandy Thomas, một nhà nhân chủng học Úc, đã nghiên cứu nhiều năm về cộng đồng Việt nam. Tôi cần nói là không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với kết luận của tác giả, nhưng tôi chia sẻ nhận định sau đây:

“Người Việt nam [tại Úc] liên tục đối diện với vấn đề biểu dương cộng đồng với nền văn hóa đa số chính mạch (the majority culture) và làm thế nào kết hợp với kẻ khác trong ‘cộng đồng lý tưởng mơ ước’ của họ (‘their imagined community’). Qua hội chợ Tết và những lễ hội nghi thức khác, các tổ chức cộng đồng hành xử như là người thương thuyết chính giữa cộng đồng và cơ cấu chính quyền địa phương. Những tổ chức cộng đồng nầy hướng dẫn sinh hoạt văn hóa và chính trị của cộng đồng và do đó có tác động sâu rộng trong việc hình thành liên tục của bản sắc Việt nam (Vietnamese identities) (1).

Đó là về mặt tập thể. Còn về mặt cá nhân, qua nhiều cuộc tiếp xúc với người Việt định cư tại vùng Tây Sydney, Mandy Thomas nhận xét rằng đời sống quá khứ tại Việt nam của họ phản ánh sự chọn lựa nhà cửa tại Úc và nhà như là một ý niệm cũng như là vật thể trong đời sống gia đình và môi trường địa phương, là mối quan tâm chủ yếu của người Việt.

Đối với người Úc gốc Việt, nhà là một ý niệm gắn liền với quê nhà (homeland), ngôn ngữ và xã hội – tất cả đều phản ánh khúc xạ qua kinh nghiệm mất mát [trong quá khứ]....Đời sống được chuyển đổi từ Việt nam và sự mất mát khung trời văn hóa Việt đã khiến người Việt tái lập đời sống văn hóa Việt trong không gian Úc châu - (1)

Tôi chưa tìm thấy một khảo sát nào về mức độ hài lòng của người Việt trên căn bản tổ ấm-sweet home, sau khi đã tạo dựng được nhà cửa tại Úc hay tại Bắc Mỹ. Ngoại trừ thành phần ông bà định cư theo diện đoàn tụ gia đình (2)và thành phần cha mẹ đoàn tụ với con cái sau khicon cái đã ổn định đời sống kinh tế, theo nhận xét của tôi, đa số người Việt định cư với tư cách tị nạn và lập nghiệp trở lại với hai bàn tay trắng, đều có cảm tưởng là họ đã tạo dựng được phần nào tổ ấmtại quê hương thứ hai.

Tôi nói "phần nào"là vì theo ý tôi, chúng ta không bao giờ có thể tái tạo hoàn toàn đời sống văn hóa mà chúng ta đã mất hoặc đời sống văn hóa đương đại mà chúng ta không còn là thành phần tham dự. Vả lại, tổ ấmcòn đòi hỏi một mức độ hội nhập nào đó vào môi trường chính mạch mà nhiều người thuộc thế hệ thứ nhất có thể còn gặp trở ngại tại các quốc gia định cư.

Sau những năm đầu định cư, người Việt được coi là thành công trong một cuộc thăm dò của Phân Khoa Xã Hội Học thuộc Viện Đại Học NSW, trên căn bản một định nghĩa tương đối về thành công như là sự hài lòng với chính mình. Theo định nghĩa nầy, thành phần ông bà cha mẹ đoàn tụ gia đình sau khi con cháu đã ổn định đời sống tị nạn về mặt kinh tế tài chánh, thường gặp nhiều khó khăn và không cảm thấy thoải mái với đời sống mới, vì tương quan chủ lực trong gia đình đã thay đổi và thứ bậc tình cảm theo truyền thống không còn được chấp nhận hoàn toàn như tại Việt nam trước kia.

Cũng thay đổi là vai trò của phụ nữ trong xã hội mới mà tôi gọi là giữa haidòng văn hóavà Mandy Thomas coi là trong tình trạng in limbo (1).Theo ý tôi, truyền thống văn hóa mà người Việt nỗ lực tái tạo cho tổ ấm-sweet homephải là truyền thống tốt, thích hợp với nguyên tắc nam nữ bình quyền và bình đẳng cơ hội (3).Vào mốc điểm 15 năm định cư ấy, tôi đã có nhận xét rằng “phụ nữ Việt nam ở nước ngoài có nhiều khả năng linh động và hội nhập thành công trong môi trường [bình đẳng] xã hội mới mà không bị vong bản"(3).

Sở dĩ tình trạng bạo hành còn xảy ra trong một số gia đình Việt nam hiện nay là do nguyên tắc bình đẳng nầy không được tôn trọng.

Điểm đáng chú ý là trong cộng đồng Việt nam hải ngoại, còn một thành phần đặc biệt có khả năng bắc cầu giữa hai thế hệ – do dó tạo điều kiện cho thế hệ thứ hai về nguồnvà thế hệ thứ nhất hội nhập, đó là thế hệ chuyển tiếp – thế hệ một rưỡi – sinh đẻ tại Việt nam và trưởng thành tại những quốc gia định cư của cha mẹ.

“Tuy kinh nghiệm định cư của người Việt ở nước ngoài không thể nói là độc nhất vô nhị, thế nhưng tiến trình định cư nầy cũng không giống như tiến trình định cư mà nhiều cộng đồng khác đã trải qua – chẳng hạn như cộng đồng Hi Lạp hoặc Italy. Trong một cách thế nào đó, cộng đồng Việt nam có thể nói là gần gu~i với cộng đồng Cuba tại Mỹ hơn là cộng đồng Trung Hoa tại Úc, bởi vì cộng đồng Việt nam và Cuba là cộng đồng tị nạn, chia sẻ cùng khát vọng tự do dân chủ cho đất nước cội nguồn. Đây là một yếu tố quan trọng trong mối dây liên hệ giữa ba thế hệ trong cộng đồng người Việt.

Thế hệ Một Rưỡi đã trải qua phần nào những năm tháng tạo dựng nhân cách ở Việt nam nên họ có khuynh hướng tìm hiểu chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩ và kinh nghiệm đau thương của thế hệ đi trước...Ngược lại, thế hệ một rưỡi lại gần gũi với thế hệ thứ hai hơn là thế hệ thứ nhất có thể làm được. Trong đời sống con người bao giờ cũng có sự cách biệt giữa hai thế hệ nầy, bất kể là họ thuộc nguồn gốc văn hóa và ngôn ngữ nào, kể cả cộng đồng chính mạch....Thế hệ thứ nhất đã "mất"một quê hương, nhưng chưa hẳn đã tìm được một quê hương mới, trong khi thế hệ thứ hai sinh đẻ ở nước ngoài và chỉ biết môi trường thổ sinh, hoặc ít nhất là thế hệ thứ hai không có những gắn bó tha thiết với đất nước cội nguồn của cha mẹ. Họ không có cảm giác đã "mất"một quê hương và không có nhu cầu tìm một quê hương mới. Thế hệ một rưỡi là thế hệ vừa "mất"một quê hương vừa tìm được một quê hương mới.” (4).

Ông Jack Passaris, chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc NSW Ethnic Communities Council, thường tự hào nói với tôi rằng con gái của ông thuộc thế hệ thứ tư sinh đẻ bên ngoài lãnh thổ Hi Lạp, nhưng cô ấy vẫn có đủ vốn liếng văn hóa và ngôn ngữ để theo học đại học tại Athens. Đây có thể là trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi không nghĩ như vậy, vì tôi biết khá nhiều về cộng đồng Hi Lạp tại Úc. Cũng như cộng đồng gốc Do Thái về phương diện tôn giáo, nhưng khác với cộng đồng Do Thái về mặt ngôn ngữ, người Úc gốc Hi Lạp và có lẽ người Mỹ gốc Hi Lạp cũng vậy, rất thành công trong việc duy trì tín ngưỡng, ngôn ngữ, và văn hóa của họ mà vẫn hội nhập thành công vào xã hội chính mạch tại các nước định cư.

Đến năm 2035, tức là sau 60 năm định cư, thế hệ thứ ba và thứ tư của chúng ta có còn khả năng nói tiếng Việt và hiểu văn hóa Việt hay không? Tôi không lạc quan lắm, trừ phi thế hệ thứ hai trong cộng đồng hiện nay tích cực về nguồn như là thành tố chia sẻû đặc tính văn hóa của home, sweet home. Trong mỗi gia đình, chúng ta đều có những trăn trở như nhau về việc nầy. nhưng không phải ai cũng thành công trong nỗ lực tìm một công thức dung hòa nhu cầu hội nhập dòng chính với nhu cầu duy trì ngôn ngữ và văn hóa Việt nam. Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang đã đề tặng tác phẩm mới nhất của mình cho các con sinh đẻ tại Mỹ là “thế hệ bảûo tồn Tiếng Việt Huyền Diệu nơi xứ người” (5).Thế hệ thứ hai tự họ cũng trải qua những trăn trở như vậy nên chủ đề của trại hè sinh viên Việt nam ở Adelaide, South Australia, đầu năm 2005 là “Ta Là Ai? Who Are We?”

Nhiều công trình khảo cứu đã và đang đi tìm câu trả lời. Vicky Karaminas viết:” Nhà (home) là nơi chúng ta nhớ khi chúng ta đi xa và là nơi chúng ta trở lại sau cuộc hành trình. Nhưng đối với nhiều người, cuộc hành trình, tình trạng ngược xuôi không bao giờ chấm dứt. Nhà được liên tục tìm kiếm qua những lúc đến và lúc đi, lúc ra và lúc vào những địa điểm khác nhau – Home is what we yearn for when we are away, and what we return to after a journey. But for many, the journey, the displacement never ends: the search for home is a contant flux of arrivals and departures, exits and entries from various locations” (6).

Tài liệu vừa được trích dẫn là một nghiên cứu về giới trẻ cư ngụ ở vùng Tây Sydney thuộc nguồn gốc Trung Đông và Châu Á, kể cả Việt nam. Trong một cuộc nghiên cứu khác, do SBS Corporation bảo trợ, giới trẻ gốc Việt đã có phản ứng rất tích cực và rõ rệt về bảo tồn văn hóa (80% +), về thưởng thức nhạc Việt nam (80% +), về am hiểu nguồn gốc văn hóa gia đình (80% +) và coi Úc Đại Lợi là ‘nhà – home’(60% +) (7).

Tuy nhiên, phản ứng tích cực ấy có vẻ như không được cụ thể hóa bằng hành động tương xứng. Tại Úc, tiếng Việt không được coi là ngôn ngữ chiến lược (như trường hợp tiếng Quan Thoại, tiếng Nhật, tiếng Bahasha Indonesia...), nên rất ít người không thuộc nguồn gốc Việt nam theo học. Còn sinh viên học sinh gốc Việt cũng không chọn học các môn Việt ngữ, Việt văn, ở mức độ đông đảo cần thiết, đến nỗi các khoa Việt Học tại nhiều Viện Đại Học Úc đã phải đóng cửa từ nhiều năm qua. Hiện nay, Victoria University ở Melbourne là viện đại học duy nhất còn giảng dạy môn Việt học.

Tình trạng nầy cũng không khác gì ở Mỹ. Theo giáo sư Trần Chấn Trí, việc giảng dạy Việt ngữ tại University of California at Irvine đang gặp nhiều trở ngại lớn. Ngoài vấn đề cắt giảm ngân sách, thay đổi học kỳ, tiếng Việt hay văn hóa Việt dường như chưa đủ sức hấp dẫn sinh viên không phải là người Việt. (8).

Nói tóm lại, trong 30 năm qua, cộng đồng Việt nam ở nước ngoài đã vượt qua rất nhiều trở ngại vật chất và tinh thần để gặt hái được thành công trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt – và thử thách văn hóa lớn lao trước mặt là nỗ lực về nguồncủa thế hệ thứ hai và những thế hệ kế tiếp. Nếu con cháu chúng ta còn quan tâm tìm câu trả lời “home away from home, but is it still sweet home? thì chúng ta có thể lạc quan được.

Và bài nầy xin được kết thúc với mấy vần thơ sau đây của John Howard Payne:

"An exile from home splendor dazzles in vain;

Oh, give me my lovely thatch’d cottage again!

The birds singing gaily that came at my call;

Give me them with the peace of mind clearer than all.

Home, sweet home".

Xin trân trọng cảm ơn quí vị và xin cầu chúc Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt Nam Tự Do Kỳ 5 tại Sydney thành công.



(Sydney, 28 tháng 12 năm 2004)

*LS Lưu Tường Quang, AO, là Giám Đốc SBS Radio, cơ quan truyền thanh quốc gia văn hóa đa nguyên của Liên Bang Australia.


Notes:

(1) Mandy Thomas, Dreams in the Shadows – Vietnamese-Australian Lives in transition, Allen & Unwin, Sydney, 1999. (trang 122, 62, 154)

(2) Thomas T. Professor and M. Balnaves, New Land, Last Home: The VietnameseElderlyand the Family Migration Program, Bureau of Immigration Research, Canberra, 1993.

(3) Ngọc Hân (ed.) Đặc San song ngữ Xuân Canh Ngọ, Sydney, 1990, No.2 (Hội Phụ Nữ Việt nam NSW):Phụ Nữ Việt Nam Giữa Hai Dòng Văn Hóa – Vietnamese Women Between Two Cultures by Lưu Tường Quang. (trang 4)

(4) Casula Powerhouse Arts Centre, In-Between 1.5 Generation Viet-Aust, Sydney 2002 – Lost and Found – A New Homeland: The Role and Characteristics of the 1.5 Generationby Lưu Tường Quang/ Chiều Chiều Ra Đứng Ngõ Sau: Vai Trò và Đặc Tính của Thế Hệ Một Rưỡi, Ngọc Hân chuyển ngữ.

(5) Migration Heritage Centre and Centre for Cultural Research, Generate:Mapping Youth Culture and Migration Heritage in Western Sydney, Sydney 2000. (trang 17)

(6) Nguyễn Xuân Quang, Tiếng Việt Huyền Diệu, Hừng Việt, Anaheim Ca., 2004.

(7) Ang, Ien Professor & others, Living Diversity – Australia’s Multicultural Future, Sydney, 2002.

(8) Nguyệt san Khởi Hành, Santa Ana, CA, số 98, tháng 12 năm 2004.



---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/03/2019(Xem: 4391)
Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi năm nay gần ngày cuối của thượng tuần tháng hai. Nên thời tiết đã trở nên ấm áp hơn, như có khí sắc lập xuân. Ban ngày cũng có cảnh nắng nhạt điểm mưa thưa, và có gió heo may làm gây gây lạnh. Cái lạnh giống hệt như cảnh Tết ở quê nhà, chỉ thiếu hình ảnh mai vàng thiệp xuân, cây nêu đầu ngõ. Và trên bàn thờ cũng không có bánh tét bánh chưng là những hương vị của ngày xuân muôn thuở. Bổng dưng chợt thấy mình còn bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Nỗi buồn tha hương ấy đã thấm càng ngày càng thêm đậm. Nên lòng luôn cảm thấy hững hờ mỗi lần xuân về tết đến. Nhưng Tết năm nay tôi lại được may mắn đón nhận một món quà vô cùng trân quý. Đó là món quà của Sư Bá ở tận nửa bán cầu của xứ Úc xa xôi gởi cho. Tác phẩm mới ra lò của Ôn với tựa là: “Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa”. Món quà như ghi dấu một tấm lòng thương yêu và nhắc nhỡ cho con luôn trau dồi thân tâm, giữ gìn giới hạnh để xứng đáng là người Phật tử. Con xin nhất tâm kính lễ cảm tạ tấm lòng của Ôn chẳng những dành
02/03/2019(Xem: 6272)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 88, tháng 3 năm 2019 , Xe lên đỉnh đèo khi mặt trời từ từ xuống thấp ở biển tây. Mặt trời đỏ ửng và hiện rõ nét hơn trước khi khuất hẳn vào lòng biển rộng. Mây dồn từng lớp ở chân trời xa thẳm, che mất vạch thẳng của mặt nước, khép lại vẻ mênh mông của biển sau một ngày dài. Đàn hải âu từ khơi quay về, bay thật nhanh, trong im lặng, rồi đáp xuống đâu đó trên những ghềnh đá dọc bãi biển.
26/02/2019(Xem: 4143)
Thơ là tiếng hát ngàn năm, thâm thiết, miên man trong tâm hồn nhân thế, còn mãi đồng vọng, âm vang cao vút tận trời mây lẫn trong sương gió, nắng mưa giữa mùa trăng ngời xanh biếc huyền mộng. Trăng là hơi thở sơ nguyên của vũ trụ, hòa quyện thiết tha, nuôi dưỡng lòng người muôn thuở, là nguồn cảm hứng muôn nơi cho biết bao thiền sư, thi nhân, nghệ sỹ đi về trên cung bậc sáng tạo, khơi mở dòng đời :
25/02/2019(Xem: 4156)
“Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” là một câu thơ của Tuệ Sỹ mà tôi cứ đọc đi đọc lại mãi trên những chuyến phiêu bạt, giang hồ khắp đó đây. Ngày đi, tháng đi, năm đi và đời mình cũng đang chuyển dịch đi qua. Đi trên nhịp bước sương lồng sông núi lặng: “Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng. Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu.”* Phiêu lưu, phiêu lãng ngàn phương, theo cách điệu tiêu dao du chơi giữa vô thường :
02/02/2019(Xem: 15420)
01. Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội; Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân. (Phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân – Huế, 1972) 02. Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ; Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.
30/01/2019(Xem: 3504)
“Khoảnh Khắc Chiêm Bao”, cuốn sách mới nhất của tác gỉa Nguyên Giác, được Ananda Viet Foundation xuất bản đã nằm trong hộp thư Tào-Khê Tịnh Thất 3 ngày nay, mới vừa được mang ra. Lý do là người được tặng sách đã rời thất 3 ngày, khi đi dự khóa tu niệm Phật miên mật tại Trang Nghiêm Tịnh Độ Đạo Tràng, tỉnh Perris.
29/01/2019(Xem: 4797)
Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới thật tuyệt, những con đường dài hun hút gió, tiếng hót đầy nũng nịu của những chú chim vừa thức giấc tạo nên một âm thanh lâng lâng trong ánh nắng. Buổi sớm, một không gian phẳng lặng, thấp thoáng sương mờ trong yên tĩnh lạ thường. Rồi ánh mặt trời yếu ớt của những ngày đông vừa thoát ra khỏi chân trời thì cũng là lúc nở một nụ cười rạng rỡ, tươi tắn chào đón một ngày mới. Tôi nghiêng mình nhìn lên, trời trong mây trắng vẫn hững hờ trôi, một tàn dư của một đêm đầy gió lưu lại trên nền trời trắng xám.
25/01/2019(Xem: 3228)
Phải đợi đến khi Tôi được sửa sai vì đã nhầm lẫn tác giả một quyển sách " Tôi Đi Tìm Phật " (tác giả: Cư Sĩ Minh Tâm) là của cố HT Thích Minh Tâm, khai sơn Chùa Khánh Anh, Paris, Pháp Quốc) và được Thầy Nguyên Tạng chỉ dạy cho tôi đọc lại tất cả những bài viết trong TƯỞNG NIỆM CỐ HT THÍCH MINH TÂM thì câu "Sách khi cần dùng đến mới hận mình đọc ít " một câu nói được trích dẫn từ một cuốn phim kiếm hiệp Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung đối với tôi giờ đây thật là thấm thía làm sao ... Thật là tội nghiệp cho tôi ...
23/01/2019(Xem: 7951)
Trong kho tàng văn chương truyền khẩu hay huyền thoại Việt Nam đã có nhiều chuyện duyên-nợ. Chẳng hạn chuyện tích Mưa Ngâu mà dân gian đã có thơ truyền tụng: Tục truyền Tháng Bảy mưa ngâu. Con Trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền. Một rằng duyên hai là rằng nợ. Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.
02/12/2018(Xem: 3604)
Những ngày tháng cuối năm đối với tuổi thơ, thiếu niên, và ngay cả những người thanh niên tuổi trẻ, thường là giai đoạn kìm nén cảm xúc, cố gắng hoàn thành bài học ở trường, công việc ở sở, để rồi sẽ được bùng vỡ ra với những ngày vui đầu năm. Dường như ở trước mắt, hay ngày mai, chỉ có những trò vui chờ đợi. Quá khứ và hiện tại không là gì cả. Giấc mơ tuổi trẻ là thế, là tương lai. Có khi hăm hở phóng cái nhìn quá xa về tương lai mà quên đi thực tế hiện tiền. Niềm đau, nỗi khổ, thất vọng, tuyệt vọng của người tuổi trẻ trong cuộc sống thường khi bắt nguồn từ những ước mơ xa vời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]