Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Cảm Thành (? – 860) Khai Sơn Chùa Kiến Sơ, Đời thứ nhất Thiền Phái Vô Ngôn Thông tại VN 🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

26/06/202110:38(Xem: 18693)
Thiền Sư Cảm Thành (? – 860) Khai Sơn Chùa Kiến Sơ, Đời thứ nhất Thiền Phái Vô Ngôn Thông tại VN 🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️




Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,


Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Cảm Thành
(? - 860), ngài khai sơn chùa Kiến Sơ và thuộc đời thứ nhất của thiền phái Vô Ngôn Thông ở Việt Nam.


Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 251 trong loạt bài giảng của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do đại dịch COVID-19.

Sư quê ở Tiên Du, không rõ họ gì, chỉ biết lúc mới xuất gia Sư có đạo hiệu là Lập Đức, ở tại quận nhà chuyên lấy trì tụng làm sự nghiệp.


Sư Phụ giải thích, Lập có nghĩa là lập công để có Đức. Đức do sự đào luyện nội tâm ở bên trong như thiền định, tụng kinh, bái sám.. đức thuộc về vô lậu, âm bên trong, không đo lường được,  tính đếm được, đức sẽ hành giả vào Phật địa, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi; trái với Đức là Phước, là cái hiển lộ bên ngoài, ai cũng thấy cũng được như bố thí, phóng sanh, cúng dường…có hình tướng nên thuộc về hữu lậu, có làm phước thì có hưởng phước, khi hết phước thì vẫn bị đọa lạc, vẫn còn bị luân hồi….Sư phụ khuyên chúng đệ tử nên noi theo gương Đức Thế Tôn phải cố gắng “tạo phước và tu đức”, không được khiếm khuyết, chọn 1 bỏ 1, bởi vì địa vị của Đức Phật được xây dựng trên nền tảng phước và đức “Phước Đức lưỡng toàn phương tác Phật”, có nghĩa là “phải đầy đủ cả phước và đức, mới có thể thành Phật”.

Có hương hào họ Nguyễn ở làng Phù Đổng mến đức hạnh cao cả của Sư, tình nguyện đem gia trạch cúng cho Sư làm ngôi chùa. Sư một mực từ chối. Ban đêm Sư nằm mộng thấy thần nhân mách :”Nếu theo ý họ Nguyễn, thời gian chẳng lâu sẽ được điềm lành lớn”.
Nhân đó Sư mới nhận lời, nay chính là ngôi chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng ấy vậy.

 

Sư Phụ giải thích, Kiến là thấy là nhận ra Sơ tâm. Sơ tâm là tâm uyên nguyên, chơn thật, tâm tôn kính với Tam bảo, là bản tâm thanh tịnh đến với Đạo, tu theo Đạo để giải thoát, Sơ tâm là Phật tâm và Phật tâm hằng có tự bên trong của vạn loài chúng sanh. Thiền Sư Cảm Thành đặt danh hiệu Chùa Kiến Sơ quá hay, mục đích muốn nhắc nhở chúng sanh luôn trân quý và bảo hộ “Sơ Tâm” của mình.


Chùa Kiến Sơ cùng tên với ngôi chùa đầu tiên mà vua Ngô Tôn Quyền xây dựng và cúng dương cho Thiền Sư Khương Tăng Hội bên Tàu.

Quả như lời thần nhân mách, Sư về trụ trì chưa bao lâu, thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Biết Thiền Sư Vô Ngôn Thông chẳng phải là hạng thường, Sư hôm sớm hết lòng thờ kính, không hề biếng trể, vì thế thiền sư Vô Ngôn Thông cảm động sự chí thành của Sư, nên đặt tên cho Sư là Cảm Thành.

Một hôm, Thiền sư Vô Ngôn Thông gọi Sư vào dạy:

- Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, Thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sơ tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ Tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ Tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này (Việt Nam) có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:



Các nơi đồn đại

Dối tự huyên truyền

Rằng thủy tổ ta

Gốc từ Tây Thiên.

 

Truyền pháp Nhãn tạng

Gọi đó là Thiền

Một hoa năm cánh

Hạt giống liên miên.

 

Thầm hợp lời mật

Muôn ngàn có duyên

Đều gọi Tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

 

Tây Thiên cõi này

Cõi này Tây Thiên

Xưa nay nhật nguyệt

Xưa nay sơn xuyên.

 

Chạm đến thành trệ

Phật Tổ thành oan

Sai đó hào ly

Mất đó trăm ngàn.

 

Ngươi khéo quán sát

Chớ lừa cháu con

Ngay như hỏi ta

Ta vốn không lời.

 

(Chư phương hạo hạo

Vọng tự huyên truyền

Vị ngô thủy tổ

Thân tự Tây Thiên.

 

Truyền pháp nhãn tạng

Mục vị chi thiền

Nhất hoa ngũ diệp

Chủng tử miên miên.

 

Tiềm phù mật ngữ

Thiên vạn hữu duyên

Hàm vị Tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

 

Tây Thiên thử độ

Thử độ Tây Thiên

Cổ kim nhật nguyệt

Cổ kim sơn xuyên.

 

Xúc đồ thành trệ

Phật Tổ thành oan

Sai chi hào ly

Thất chi bách thiên.

 

Nhữ thiện quán sát

Mạc trám nhi tôn

Trực nhiêu vấn ngã

Ngã bổn vô ngôn.)

 

Nghe xong bài kệ, Sư liền lãnh ngộ.

 

 Sư phụ giải thích: bài kệ khai thị của Thiền Sư Vô Ngôn Thông đối với đệ tử Cảm Thành của ngài quá tuyệt vời, nói lên ý nghĩa lịch sử truyền y bát, truyền tâm ấn.

 

 

Một lần có vị Tăng đến hỏi: "Thế nào là Phật?".

Sư đáp: "Khắp hết mọi nơi."

Lại hỏi: "Thế nào là tâm Phật?"

Sư đáp: "Không từng che giấu."

Lại thưa: "Học nhân không hiểu".

Sư bảo: "Đã đi quá xa rồi".

 

Sư Phụ giải thích: lời pháp ngữ của Thiền Sư Cảm Thành rất ngắn gọn nhưng sâu sắc, ngài trả lời Khắp hết mọi nơi “ cho câu hỏi “thế nào là Phật ?”, vì rằng Chơn tâm Phật tánh có khắp mọi nơi, vì nghĩa gốc của “Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na”, là "Quang Minh Biến Chiếu", ánh sáng chiếu rực rỡ khắp mọi nơi (quang minh biến chiếu), "Biến Nhất Thiết Xứ", có mặt khắp mọi nơi, Nơi nào có chúng sanh là nơi đó có thể tánh Phật ẩn tàng bên trong.


Thiền khách hỏi “Thế nào là tâm Phật?” TS Cảm Thành trả lời “Không từng che giấu”. Tâm Phật luôn hằng có trong tất cả chúng sanh vạn loài nhưng vì chúng sanh bị mây tham, mây sân, mây si, mây mạn, mây nghi, mây tà kiến, mây ác kiến...ngăn che nên chúng sanh không nhìn thấy trăng Phật tánh, một khi mây phiền não vô minh tan hết thì trăng Phật tánh sẽ hiển lộ.

Thiền khách tự thú:  “Học nhân không hiểu”
Thiền Sư Cảm Thành đúc kết: “Đã đi quá xa rồi”.

Vì rằng Phật tánh hiện tiền ngay bây giờ và tại đây, trong sát na này, ngay trong vô niệm, ngay trong chánh niệm, ngay trong tâm tĩnh lặng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không còn đối đãi, thị phi nữa, đó là Phật tánh, còn khởi niệm là còn vọng niệm, còn vọng niệm là còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp là con luân hồi sanh tử.

 


Về sau, Sư không bệnh mà tịch vào năm Canh Thìn, nhằm năm đầu niên hiệu Hàm Thông (860) nhà Đường.

 

Sư Phụ giải thích Thiền Sư Cảm Thành viên tịnh cách thời đại chúng ta 1,161 năm, trong sách sử ghi là ngài viên tịch vào năm đầu niên hiệu Hàm Thông (860) nhà Đường, tại sao ngài viên tịch tại Việt Nam mà không ghi niên lịch của nước Việt mà ghi nước Tàu, vì lúc này

Việt Nam không có vua, không có chủ quyền, VN còn bị đô hộ bởi giặc Tàu....

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Cảm Thành của TT Chúc Hiền sáng tác, bài thơ rất hay, chan chứa đầy đủ mọi chi tiết về cuộc đời, hành trạng giải thoát của Ngài:

 

 Kinh văn tụng niệm đức cao ngời

Hạnh nguyện huân tu vang khắp nơi

Họ Nguyễn phát tâm dâng cúng đất

Thần Nhân ứng mộng mách khai lời

Thiền môn dựng lập tham sân cạn

Giáo pháp khai thông chướng nghiệp vơi

Suối ý thanh lương tâm địa tĩnh

Cảm Thành thiền tuệ chiếu muôn đời…!



Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Lập Đức Cảm Thành, tên của Ngài nói lên đường tu đơn giản, mộc mạc của Ngài do hết lòng tôn kính bậc Thầy đến từ phương xa đến, nhờ tấm lòng tôn kính hầu Thầy, ngài “lập công bồi đức” nên ngài được Sư phụ ấn chứng và trở thành người nối pháp cho dòng thiền Vô Ngôn Thông tại Việt Nam.

 


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm,
(Montréal, Canada).

 


251_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Cam Thanh

Thiền Sư Cảm Thành đã khai sơn và trú trì ngôi chùa Kiến Sơ
tại làng Phù Đổng huyện Tiên Du trước khi Tổ Sư Vô Ngôn Thông qua VN .

Thiền Sư Cảm Thành (? – 860) Khai Sơn Chùa Kiến Sơ, Nhị Tổ Thiền Phái Vô Ngôn Thông tại Việt Nam



Kính dâng Thầy bài thơ trình Pháp sau khi được nghe bài pháp thoại hôm nay về Thiền Sư Cảm Thành . Kính đa tạ Thầy đã giải thích rất kỹ về lời khai đạo của Thiền Sư Vô Ngôn Thông cho thiền sư Cảm Thành với tất cả tấm lòng của một Sư Phụ muốn truyền tâm ấn tâm cho đệ tử rõ , sự truyền y bát chỉ là phương tiện nhưng cần thiết nhất là thầm hợp với nhau , nơi nào có chúng sinh cần phổ độ quần mê thì nơi ấy là Tây Thiên, và khi ấy truyền thừa là Tâm tông vậy . Kính tri ân Thầy với những lời ôn nhắc về Pháp thân Thanh tịnh Tỳ Lô Giá Na và Phật Tánh hằng hữu...

Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe thường an, HH



Có phải Kiến Sơ dựng xây nhờ bồi công LẬP ĐỨC ? (1)

Khiêm hạ, kính thành tam bảo giữ SƠ tâm

Tụng kinh minh Phật chi lý ... chẳng sai lầm

Thần nhân báo mộng điều lành mai kia xuất hiện ! (2)

Túc duyên đã sẵn ...minh sư diện KIẾN (3)



CẢM động lòng Thầy , tha thiết chí THÀNH

Đạo hiệu từ đây ...nối pháp nhị Tổ vang danh

Thầm hợp Chánh pháp qua lời khai Đạo (4)

Tâm tông phổ độ chốn Tây Thiên hằng ...dạo !

Kính đa tạ Giảng Sư ..mật nghĩa của truyền thừa !(5)

Sư Phụ chỉ gợi ý...pháp nhủ thấm đất như mưa

Như thắp sáng lại đèn trí tuệ Bát Nhã !

Thượng đường ...Tăng sinh hỏi với vài câu giáo hoá ! (6)

Phật ở mọi nơi giống ánh trăng rằm

Ngày nào chẳng có ... che vì mây tham dục , hôn trầm

Vấn đề chỉ là ... phá tan được căn bản, tuỳ ..phiền não ! (7)

Biến nhất thiết xứ ... thanh tịnh pháp thân huyền, áo

Phật tánh hằng hữu ngàn xưa đến ngàn sau (8)

Rõ biết thuần thục , chiêm nghiệm thâm sâu

Thật tướng vô tướng ...Giác Ngộ, Giải Thoát !



Nam Mô Cảm Thành Thiền Sư tác đại chứng minh .



Huệ Hương
Melbourne 26/6/2021


(1) Sư quê ở Tiên Du, không rõ họ gì, chỉ biết mới xuất gia đạo hiệu là Lập Đức, ở tại quận nhà chuyên lấy việc trì tụng làm sự nghiệp.

(2) Có Hương hào họ Nguyễn ở làng Phù Đổng mến đức hạnh cao cả của Sư, tình nguyện đem gia trạch cúng cho Sư làm ngôi chùa. Sư một mực từ chối. Ban đêm Sư mộng thấy thần nhân mách: “Nếu theo ý họ Nguyễn, thời gian chẳng lâu sẽ được điều lành lớn.” Nhân đó, Sư mới nhận lời, nay chính là ngôi chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng ấy vậy.

(3) Quả như lời thần nhân mách, Sư về trụ trì chưa bao lâu, Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Biết Thiền sư chẳng phải là hạng thường, Sư hôm sớm hết lòng thờ kính, không hề biếng trễ. Vì thế Thiền sư Vô Ngôn Thông đổi hiệu Sư là Cảm Thành.

(4)

Một hôm, Thiền sư Vô Ngôn Thông gọi Sư vào dạy:

- Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, Thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sơ tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, vì truyền phápnày. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ Tổ, vẫn dòng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rõ chỗ đắc pháp. Nay niềm tinđã thuần thục, thì y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ Tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mã Tổ Đạo Nhất, Mã Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này (Việt Nam) có nhiều người hâm mộ Đại thừa, vì thế mà đến phương Nam để tìm thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyênđã sẵn

(5) Ngài Vô Ngôn Thông đã nói kệ : ( về việc truyền thừa )

Các nơi đồn đại

Dối tự huyên truyền

Rằng thủy tổ ta

Gốc từ Tây Thiên.

Truyền pháp Nhãn tạng

Gọi đó là Thiền

Một hoa năm cánh

Hạt giống liên miên.

Thầm hợp lời mật

Muôn ngàn có duyên

Đều gọi Tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên cõi này

Cõi này Tây Thiên

Xưa nay nhật nguyệt

Xưa nay sơn xuyên.

Chạm đến thành trệ

Phật Tổ thành oan

Sai đó hào ly

Mất đó trăm ngàn.

Ngươi khéo quán sát

Chớ lừa cháu con

Ngay như hỏi ta

Ta vốn không lời.

(Chư phương hạo hạo

Vọng tự huyên truyền

Vị ngô thủy tổ

Thân tự Tây Thiên.

Truyền pháp nhãn tạng

Mục vị chi thiền

Nhất hoa ngũ diệp

Chủng tử miên miên.

Tiềm phù mật ngữ

Thiên vạn hữu duyên

Hàm vị Tâm tông

Thanh tịnh bản nhiên.

Tây Thiên thử độ

Thử độ Tây Thiên

Cổ kim nhật nguyệt

Cổ kim sơn xuyên.

Xúc đồ thành trệ

Phật Tổ thành oan

Sai chi hào ly

Thất chi bách thiên.

Nhữ thiện quán sát

Mạc trám nhi tôn

Trực nhiêu vấn ngã

Ngã bổn vô ngôn.)

Nghe xong bài kệ, Sư liền lãnh ngộ.

( 6) Một lần có vị Tăng đến hỏi: "Thế nào là Phật?". Sư đáp: "Khắp hết mọi nơi."

Lại hỏi: "Thế nào là tâm Phật?". Sư đáp: "Không từng che giấu."

Lại thưa: "Học nhân không hiểu". Sư bảo: "Đã đi quá xa rồi".

(7)

Phiền não gốc, căn bản, từ đó kéo theo nhiều phiền não khác gọi là tùy phiền não. Duy Thức học phân biệt có sáu phiền não căn bản: 1. tham; 2. sân (giận); 3. mạn (kiêu căn); 4. vô minh (si); 5. Kiến (tà kiến); 6. Nghi.

Và Hai mươi món phiền não này, là tuỳ thuộc 6 món Căn bản phiền não trên mà sanh khởi.

Vì phạm vi tương ưng của nó có rộng và hẹp không đồng, nên chia làm ba loại:

I. TIỂU TUỲ, có 10 món, mỗi món tự lực sanh khởi, phạm vi tương ưng nhỏ hẹp, nên gọi là "Tiểu".

1. Phẫn: Giận. Tánh của tâm sở này, khi gặp cảnh trái nghịch, nóng giận

2. Hận: Hờn. Khi gặp cảnh nghịch, trước nóng giận rồi sau mới hờn. Tánh của Tâm sở này là ôm ấp sự oán ghét không bỏ.

3. Phú: Che giấu. Tánh của tâm sở này, vì sợ mất danh giá và tài lợi, nên che giấu tội lỗi của mình.

4. Não: Buồn buồn. Khi gặp cảnh nghịch, trước giận hờn rồi sau mới buồn. Tánh của Tâm sở này hay nhớ lại những cảnh trái nghịch đã qua, rồi sanh buồn phiền.

5. Tật: tật đố, ganh ghét. Tánh của tâm sở này hay ganh ghét đố kî những gì mà người ta hơn mình.

6. Xan: Bỏn xẻn. Tánh của tâm sở này, bỏn xẻn, rích rắm, không chịu ban bố tiền tài hay giáo pháp cho người.

7. Cuống: Dối. Tánh của tâm sở này, dối gạt người để lợi mình.

8. Siểm: Bợ đở, nịnh hót. Tánh của tâm sở này, lựa thời thế nịnh hót, bợ đỡ người.

9. Hại: Tổn hại. Tánh của tâm sở này làm tổn hại các loài hữu tình.

10. Kiêu: Kiêu căng. Tánh của tâm sở này, vì thấy mình giàu sang, quyền tước hoặc tài năng, rồi sanh ra kiêu cách và ngạo nghễ.

II. TRUNG TUỲ, có hia món là Vô tàm và Vô quý; vì hai món Tâm sở này, duyên các Tâm sở bất thiện, phạm vi tương ưng của nó trung bình, nên gọi là "trung tuỳ".

11. Vô tàm: Tự mình không biết, xấu hổ. Tánh của tâm sở này, khi làm việc quấy không biết tự hổ, khinh dễ những người hiền thiện.

12. Vô quý: Không biết thẹn với người. Tánh và tâm sở này, khi làm việc quấy, không biết thẹn với người, ưa làm việc tội ác.

III. ĐẠI TÙY, có 8 món sau đây. Tám món Tâm sở này biến khắp các Tâm sở bất thiện, phạm vi của nó rộng hơn hai món Trung tuỳ trước, nên gọi là "Đại tuỳ".

13. Trao cử: Lao chao. Tánh của Tâm sở này làm cho thân tâm chao động không yên tịnh.

14. Hôn trầm:Mờ tối trầm trọng. Tánh của Tâm sở này, khiến cho tâm khi đối với quán cảnh mờ mịt không sáng suốt.

15. Bất tín: Không tin. Tánh của Tâm sở này là không tin các pháp lành, làm cho tâm tánh ô nhiễm.

16. Giãi đãi: Biếng nhác trễ nãi, Tánh của Tâm sở này là biếng nhác, không lo đoạn ác và tu thiện.

17. Phóng dật: Buông lung. Tánh của Tâm sở này phóng túng, buông lung, không thúc liễm thân tâm để đoạn ác tu thiện.

18. Thất niệm: Mất chánh niệm. Làm chướng ngại chánh niệm và sanh tán loạn.

19. Tán loạn: tâm rối loạn.

20. Bất chánh tri: Biết không chơn chánh, khi đối với cảnh, hiểu biết sai lầm.

(8) Phật tính (zh. fóxìng 佛性, ja. busshō, sa. buddhatā, buddha-svabhāva) là thể bất sinh bất diệt của mọi loài theo quan điểm Đại thừa. Theo đó, mọi loài đều có thể đạt giác ngộ và trở thành một vị Phật, không bị đời sống hiện tại hạn chế. Có nhiều quan điểm khác nhau về phật tính, người ta tranh cãi liệu tất cả mọi loài đều có Phật tính hay không, liệu thiên nhiên vô sinh vô tri như đất đá có Phật tính hay không.

Đại thừa xem đạt Phật quả là mục đích cao nhất, đó là sự thể hiện Phật tính nằm sẵn trong mọi chúng sinh, thông qua những phép tu học nhất định.

Theo Thiền tông thì mỗi chúng sinh đều có Phật tính, nhưng nói chung thì không tự biết và cũng không sống với sự tự hiểu biết này như một bậc giác ngộ, một vị Phật. Sự thức tỉnh này và sự sinh diệt, xảy ra từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc nọ, là biểu hiện của sự đồng nhất với Phật tính và cũng chính là mục đích của Thiền.







youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2021(Xem: 23408)
Đức Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 07/07/2020 (17/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. Bài kệ số 16: ĐỨC PHẬT TỲ BA THI 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Nhẫn nhục đệ nhất đạo Phật thuyết vô vi tối Xuất gia não tha nhân Bất danh vị sa môn. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật. (1 lạy) Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục Là pháp tu thứ nhất, Pháp vô vi tột cùng. Cho nên người xuất gia Gây khổ não cho người, Thì không gọi “sa môn”. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
18/01/2021(Xem: 13803)
Tôn Giả La Hầu La, Đệ Nhất Mật Hạnh 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu 04/09/2020 (17/07/Canh Tý) Chiên đàn hải ngạn Lư nhiệt danh hương Da Du tử mẫu lưỡng vô ương Hỏa nội đắc thanh lương Chí tâm kim tương Nhất chú biến thập phương Nam mô Mật Hạnh Đệ Nhất La Hầu La Tôn Giả Hương chiên đàn hải ngạn Lò đốt ngát mùi thơm Mẹ con bà Da Du An toàn không tai ương Trong lửa cháy hừng hực Nghe mát mẻ dị thường Nay đem lòng chí thành Một nén thấu mười phương Nam mô Mật Hạnh Đệ Nhất La Hầu La Tôn Giả 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Thời pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về 10 vị đại đệ tử Phật và chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam… 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
18/01/2021(Xem: 15378)
TÔN GIẢ PHÚ LÂU NA, ĐỆ NHẤT THUYẾT PHÁP 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Năm, 27/08/2020 (09/07/Canh Tý) Như Lai thọ ký tác Pháp Minh Tùy cơ thuyết pháp nhi hóa độ Bất từ lao quyện nhập tam đồ Luận tạng xưng dương giải Phật ngôn Chí tâm đảnh lễ Nam Mô Phú Lâu Na Tôn Giả Như Lai thọ ký làm Phổ Minh Tùy cơ thuyết pháp hay hóa độ Không hề mệt nhọc vào ba cõi Luận tạng ngợi khen giải lời Phật Chí tâm đảnh lễ Nam Mô Phú Lâu Na Tôn Giả 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼
16/01/2021(Xem: 14291)
TÔN GIẢ ƯU BA LY, ĐỆ NHẤT TRÌ GIỚI 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 01/09/2020 (14/07/Canh Tý) Đắc độ thân tiền thất vương tử Lăng Nghiêm hội thượng chứng viên thông Hoằng dương luật giáo Tỳ Ni Tạng Phật pháp do tư trụ thế long. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Ba Ly Tôn Giả Được độ trước bảy vị vương tử Pháp hội Lăng Nghiêm chứng viên thông Chuyên hành trì hoằng dương Giới Luật Khiến cho Phật pháp trụ ở đời Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Ba Ly Tôn Giả 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Thời pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về 10 vị đại đệ tử Phật và chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam… 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
16/01/2021(Xem: 14993)
Bốn Cách Buông Bỏ (Bài giảng của Thiền Sư Ajahn Brahm từ Perth, Tây Úc)
16/01/2021(Xem: 15412)
Tại sao tử tế với nhau khó đến thế? (Bài giảng của Thiền Sư Ajahn Brahm từ Perth, Tây Úc)
16/01/2021(Xem: 13676)
TÔN GIẢ TU BỒ ĐỀ, ĐỆ NHẤT GIẢI KHÔNG 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Sáu, 28/08/2020 (10/07/Canh Tý) Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai. Nếu do sắc thấy ta, Do âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai. Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề Tôn Giả 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Thời pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về 10 vị đại đệ tử Phật và chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam… 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
16/01/2021(Xem: 13646)
Ước vọng được nghe live trực tuyến với bài Pháp: "Đức Phật đang ở đâu?" của Thầy Nguyên Tạng đã trở thành vô vọng với chúng tôi, những Phật tử ở vùng Âu Châu. Khi Thầy gửi cái mail chỉ dẫn đường link để vào nghe Pháp thoại thật chi tiết với giờ giấc địa phương thật khác biệt và lời nhắn nhủ mời hai chị Nhật Hưng và Hoa Lan vào xem livestream nhé! Chúng tôi tự nhìn nhau qua máy nghẹn ngào, không nhanh nhẩu trả lời như mọi khi: "Dạ, chúng con sẽ...". Tại sao chúng tôi không chịu "Y giáo phụng hành"? Cứ có mặt thả một cái like và chắp tay chào Thầy là ai nấy đều vui cả! Đằng này!!! ... Vì mỗi tối khi chúng tôi hát bài "0 giờ rồi hãy ngủ đi thôi!", thì chúng tôi ngủ say như... như gì cũng được (kiêng tiếng này)! Do đó vào lúc 1 giờ 30 giờ Melbourne Úc Châu, Thầy nhìn màn hình tìm Phật tử Âu Châu lúc ấy là 3 giờ 30 sáng, chỉ thấy một người đại diện là chị Diệu Âm bên Hòa Lan, còn Diệu Như bên Thụy Sĩ hay Thiện Giới bên Đức quốc còn đang nằm ngáy vô tư, thực hiện lời Phật dạy "Đói
15/01/2021(Xem: 14768)
“Đức Phật Đang Ở Đâu?„ một đề tài vô cùng hấp dẫn lôi cuốn mà đã là Phật tử thì ai cũng muốn biết, trong đó có tôi. Nhưng vấn đề ở đây, muốn tìm thấy Đức Phật, trước tiên tôi phải tìm cho được “Thầy Nguyên Tạng đang ở đâu?„ để Thầy hướng dẫn đi tìm Phật. Số là thứ 2 tuần trước, sau buổi giảng của Hòa Thượng Thích Như Điển, Thầy Thiện Trí MC có thông báo thứ 2 tuần sau là giờ giảng của Thầy Nguyên Tạng lúc 8.30 tối. Nghe lơ mơ vậy, tôi nhập tâm in vào tâm trí ngày, giờ, tháng đó để rồi canh máy ngồi đợi, tôi còn thông báo cho cô bạn văn Hoa Lan bên Đức nhớ chuẩn bị cơm nước để rồi vào nghe. Vô Zoom thì không biết mở cửa dù có chìa khóa, chỉ còn facebook thôi. Nhưng tìm mãi không thấy Thầy Nguyên Tạng ở đâu. Trời ạ, tìm Thầy ở thế gian này, giờ phút này còn không ra làm sao tìm thấy Phật dễ dàng từ 26 thế kỷ trước. Tôi liền chat hỏi thăm Hòa Thượng Như Điển mới hay 8.30 là giờ bên Mỹ, tức 3.30 sáng ngày hôm sau của Âu Châu.
15/01/2021(Xem: 13067)
Thật là một nhân duyên thù thắng khi tôi được nghe quý Hòa Thượng, Thượng Tọa giảng pháp trên kênh youtube của Trang Nhà Quảng Đức/Úc châu trong chương trình hoằng pháp online Liên Âu lần thứ III. Và ngày 12/01/2021, tôi được nghe bài thuyết giảng của Thượng Tọa Giảng sư Thích Nguyên Tạng cho các Huynh trưởng lớp Bậc Lực, Gia đình Phật tử Việt Nam Hải Ngoại, với chủ đề về ba vị Thiền Sư nổi tiếng bậc nhất trên thế giới, đã đem Phật Giáo vào đời đến gần các nước phương Tây qua phương pháp THIỀN và HÀNH THIỀN. Đó là các Ngài: - THIỀN SƯ D.T. SUZUKI (Nhật Bản) - THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH (Việt Nam) - ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 14 (Tây Tạng)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]