- 01. Cô Gái Hạ Tiện Yêu Tôn Giả Ānanda
- 02. Nguyên Nhân Đức Phật Cho Thọ Y Kaṭhina
- 03. Cây Bồ Đề Ānanda
- 04. Người Đàn Bà Đau Khổ
- 05. Vị Tỳ Khưu Mắt Mù
- 06. Con Ngỗng Oan Nghiệt
- 07. Cho Xin Hạt Cải
- 08. Triệu Phú Keo Kiệt
- 09. Cô Gái Nô Lệ Đội Nước
- 10. Ni Trưởng Mahā Pajāpatī Gotamī Niết-bàn
- 11. Miếng Giẻ Chùi Chân
- 12. Tên Thợ Săn Độc Ác
- 13. Vị Tỳ Khưu Ni Sinh Con
- 14. Đổi Chiếc Xe Mới
- 15. Con Số Đen Bất Hạnh
- 16. Devadatta Muốn Chưởng Quản Tăng Đoàn
- 17. Thái Tử Ajātasattu Hành Thích Vua Cha
- 18. Đức Phật Tẩy Chay Lễ Đăng Quang
- 19. Giết Phật Bằng Cung Nỏ Và Lăn Đá
- 20. An Tịnh Trong Ngục Tối
- 21. Giết Phật Bằng Voi Dữ Nālāgiri
- 22. Chiêu Bài Cuối Cùng Của Devadatta
- 23. Trưởng Giả Cấp Cô Độc Ra Đi
- 24. Củng Cố Pháp Và Luật
- 25. Binh Lửa
- 26. Tôn Giả Mahā Moggallāna Báo Hiếu Mẹ (bài của HT Minh Đức Triều Tâm Ảnh, do Phật tử Chánh Trí diễn đọc)
- 27. Tội Ác Cuối Đời Của Đức Vua Pāsenadi
- 28. Cảnh Giới Cho Thái Hậu Videhi
- 29. Tình Phụ Tử Thiêng Liêng
- 30. Cái Gốc Của Ghẻ Lở, Mụn Nhọt
- 31. Đêm Thanh, Trăng Sáng
- 32. Tiễn Chư Trưởng Lão Lần Lượt Ra Đi
- 33. “Pháp Truyền Thống” Của Đức Vua Pāsenadi
- 34. “Cái Thấy Sự Thực” Hóa Giải Hận Thù
- 35. Ngọn Lửa Thù
- 36. Lời Của Bậc Trí
- 37. Quả Báo Của Devadatta
- 38. Dòng Sākya Tiêu Vong
- 39. Tôn Giả Sāriputta Viên Tịch
- 40. Tôn Giả Mahā Moggallāna Niết-bàn
- 42. Nhân Quả Công Minh
- 43. Có Đủ Bảy Pháp Này, Đất Nước Không Thể Bại Vong!
- 44. Bảy pháp bất thối khác
- 45. Lại Lên Đường, Lại Ra Đi!
- 46. Phật Hứa Với Ma Vương
- 47. Cả Đêm, Rừng Sālā Không Ngủ
- 48. Bụi Tan Thành Ngọc
- 49. CẢM BẠT
Nhân Quả Công Minh
Do cái chết của vị đệ nhị đại đệ tử bị bọn côn đồ chặt ra từng khúc, từng đoạn rồi quăng thịt xương vương vãi khắp nơi làm xúc động nhiều người nên tại giảng đường Trúc Lâm, đức Phật phải vén bức màn quá khứ, kể lại một đại ác nghiệp của tôn giả Mahā Moggallāna. Rồi sau đó, ai cũng biết tình tiết câu chuyển xẩy ra như sau:
Trong một kiếp quá khứ rất lâu xưa, Mahā Moggallāna là một thanh niên con nhà tử tế, có gia giáo, có hiếu hạnh, hằng ngày chăm chuyên, tận tụy với nghề nghiệp, không kể sớm hôm, để kiếm tiền hầu chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bị mù lòa.
Cha mẹ thấy chàng vất vả quá, bèn khuyên con nên tìm một người vợ để đỡ đần công việc, nhưng chàng cương quyết từ chối. Sau nhiều lần gạn hỏi lý do tại sao, chàng nói với cha mẹ rằng:
- Có vợ, con người con sẽ bị chia làm hai, ngại rằng khi ấy con đối xử với cha mẹ không trọn vẹn được nữa.
Cha mẹ chàng lại thuyết phục:
- Có vợ, con lại có thêm hai tay, hai chân thì công việc bên ngoài, bên trong không trôi chảy hơn sao? Ngoài ra, cha mẹ cũng muốn có cháu để bế bồng, hôn hít. Ngôi nhà có tiếng trẻ khóc cười là ấm cúng, hạnh phúc lắm đó con!
Vậy là xuôi tai, chàng cưới vợ. Thời gian đầu, cô vợ cũng săn sóc cha mẹ chồng khá tốt đẹp, nhưng dần dà, cô thấy mệt, thấy chán cái công việc chẳng khác gì con ở ấy.
Hôm kia, cô than vãn với chồng:
- Cha mẹ đổ chướng, khó tính, khó nết quá, tôi không sống nổi với họ đâu.
Chàng không để lọt vào tai, chỉ khuyên lơn vợ vài câu cho qua chuyện. Cô vợ này bắt đầu ghét cha mẹ chồng nên cô nêu ra những tính xấu của cha mẹ cho có đầu có đuôi, có nhân có quả rõ ràng rồi khóc lóc, kể lể cho chồng nghe.
Thấy chàng vẫn không tin, cô bèn ngụy tạo cụ thể hơn. Cô lấy cháo bôi bẩn khắp nhà, khắp tường, khi chồng về hỏi, cô đáp:
- Cha mẹ cứ mò mẫm, đi tới, đi lui, đi đâu thì vấy bẩn tới đó!
- Vậy thì em chịu khó quét dọn, lau chùi đi!
Ngày này qua ngày nọ, tháng này sang tháng kia, như nước mưa lâu cũng thấm đất, người thanh niên kia không kiểm tra sự việc, cuối cùng phải tin theo vợ rồi cũng đâm ra ghét cay ghét đắng cha mẹ mình!
Hôm kia, họ bàn nhau, làm một chiếc xe đẩy, bỏ một ít lương thực lên đấy, chàng giả vờ mời cha mẹ về thăm bà con ở một ngôi làng xa.
Khi xe vào rừng sâu, chàng giả lấy đao kiếm khua lên rồi la í ới:
- Cướp cướp... cha mẹ ơi! Con gặp lũ cướp giết người rồi!
Rồi chàng chạy đến lấy đùi, lấy gậy, đánh đập vào cha vào mẹ mẹ rất tàn nhẫn. Ngay lúc ấy, cha mẹ chàng không nghĩ đến thân phận mù lòa của mình, cái đau đớn của mình, thương con, la lên đến khản giọng:
- Con chạy đi, con chạy đi, cha mẹ già rồi, không còn sợ chết đâu. Con chạy thoát lấy thân đi!
Nghe vậy, thanh niên rất xúc động, tự nghĩ: “Tuy bị hành thân hoại thể như vậy, hai vị chẳng kể đến mình, chỉ lo cho con thôi! Ôi, cái tình cha mẹ thật là mênh mông vô lượng. Ta thật xấu hổ khi đã làm một việc ác đức, tệ hại, không phải là giống người!”
Sau đó, chàng giả vờ khua đao kiếm, đập đá, đánh cây cho vang tiếng như chống trả bọn cướp một cách mãnh liệt rồi đến bên cha mẹ:
- Con đuổi được bọn cướp đi rồi! Cha mẹ an toàn rồi, không còn sợ hãi gì nữa!
Trở lại nhà, chàng đuổi bà vợ đi, môt mình chăm lo phụng dưỡng cha mẹ cho chu đáo.
Mặc dầu chàng đã hối hận việc ác của mình nhưng khi nghiệp đã tạo rồi, nó đâu có buông tha? Tuy nó chưa có cơ hội trổ quả nhưng nó vẫn chờ đợi như ngọn lửa âm thầm dưới đống tàn tro. Thế là đợi khi đủ duyên, nó bùng lên, nó tóm lấy tôn giả Mahā Moggallāna vào kiếp cuối cùng, nên tôn giả bị đánh cho tan xương, nát thịt là rất đúng với sự công minh của nhân quả vậy”.(1)
Và cũng công minh không kém gì - về những tên côn đồ giết hại tôn giả Mahā Moggallāna!
Khi thần y Jīvaka đi dự lễ an trí xá-lợi, y và bát của tôn giả Mahā Moggallāna lên bảo tháp, về cung, ông kể lại mọi việc cho đức vua Ajātasattu nghe. Cả chuyện do nhân ác nghiệp trong quá khứ nên kiếp này ngài bị bọn côn đồ chặt chém thân thể như thế nào nữa.
Đức vua Ajātasattu nổi giận:
- Bọn chúng dám coi đất nước này không còn có pháp luật nữa sao? Chúng nó dám chặt chém vị đại đệ tử đức Tôn Sư. Rồi chúng sẽ bị trả quả hiện tiền cho mà xem!
Thế rồi, đức vua cho quân thám tử trà trộn vào các chỗ cờ bạc, rượu chè ăn chơi để điều tra thủ phạm. Hôm kia, trong một quán rượu, mấy tên côn đồ chưởi mắng nhau, rượu vào lời ra:
- Mày là tên hèn nhát.
- Tao chỉ có một ít tiền, mày nhiều tiền hơn.
- Tao là can đảm nhất.
- Tao chém đao đầu tiên vào ông ta, nghe nói là bậc có nhiều thần lực, đại oai lực ấy.
Rồi chúng xô xát, ấu đả nhau.
Thám tử hô lính vào bắt trói hết cả bọn, có tên côn đồ Samaṇagutta cầm đầu, dẫn về triều đình. Sau khi tra hỏi gắt gao, chúng nó thú thật là có nhóm đạo sĩ Nigaṇṭha Nātaputta thuê một ngàn đồng tiền vàng để giết tôn giả Mahā Moggallāna – và chính các đạo sĩ ấy mới là kẻ chủ mưu.
Đức vua Ajātasattu cho lệnh bắt hết, cả bọn côn đồ và bọn đạo sĩ, chừng một trăm người. Tại pháp trường, vua cho đào một trăm cái hố, chôn từng tên đến ngang bụng, phủ đầy rơm rồi châm lửa đốt. Lửa rơm tàn, có kẻ chết, có người còn ngắc ngư; theo lệnh của đức vua, những tên lính thi hành án mang những chiếc cày sắt cày qua cày lại, cho đến khi xác của bọn côn đồ, đạo sĩ tan nát, bầy nhầy thịt máu mới thôi.
Từ sự trừng phạt đích đáng này, khi giảng pháp, chư đại trưởng lão nói tội báo giết một bậc thánh tội rất nặng và thọ khổ cũng rất nhiều, như các câu kệ sau đây:
Dùng đao hại kẻ “không đao”([1])
Trượng hại “không trượng”([2])khác nào tự thiêu!
Ai kia thọ khổ mười điều
Chịu quả khốc liệt cùng nhiều tai ương!(3)
Một là nhức nhối đau thương
Hai là họa biến, khôn đường trở xoay
Ba là thương tích mặt mày
Bốn là trọng bệnh, thuốc thầy chẳng xong!(4)
Năm là tâm trí loạn cuồng
Sáu, bị hại bởi lực quyền vua quan
Bảy, chịu trọng tội cáo oan
Tám là gia quyến các hàng phân ly!(5)
Chín là tài sản ra đi
Mười là nhà cửa, lắm kỳ hỏa tai
Đến khi thọ mạng hết rồi
Chung thân địa ngục đồng sôi, chảo dầu!(6)(1)Chú giải Pháp cú, đoạn trên có hơi khác: Tuy cha mẹ thương mình, lo cho mình như vậy nhưng chàng thanh niên chẳng động tâm, ra tay đánh chết cha mẹ rồi quăng xác giữa rừng sâu. Mệnh chung, chàng rơi vào địa ngục, bị quả báo địa ngục đao kiếm, địa ngục đồng sôi, bị đâm, bị chém, bị thiêu bị nấu cả hằng triệu năm như thế! Hiện tại, dẫu là một bậc thượng thủ A-la-hán, đệ nhất đại thần thông, nhưng dư nghiệp tội báo chút ít còn sót lại, nó vẫn đến đòi nợ quả như thường!
(3))Pháp cú 137: Yo daṇḍena adaṇḍesu, appaduṭṭhesu dussati, dasannamaññataraṃ ṭhānaṃ, khippameva nigacchati.
(4) Pháp cú 138: Vedanaṃ pharusaṃ jāniṃ, sarīrassa ca bhedanaṃ, garukaṃ vā pi ābādhaṃ, cittakkhepaṃ ca pāpuṇe.
(5) Pháp cú 139: Rājato vā upasaggaṃ, abbhakkhānañca dāruṇaṃ, parikkhayaṃ va ñātīnaṃ, bhogānaṃ va pabhaṅguraṃ.
(6) Pháp cú 140: Atha vāssa agārāni, aggi ḍahati pāvako,kāyassa bhedā duppañño, nirayaṃ so’papajjati.