Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tội lỗi, hình phạt & sám hối

19/02/201408:05(Xem: 5550)
Tội lỗi, hình phạt & sám hối
Phat ngoc

Có câu chuyện Thiền trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, xuất hiện vào thế kỷ 13, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, tên là Shasekishu, dịch giả Paul Reps dịch sang Anh Ngữ, nội dung như sau: “Trong cuộc hành trình tới tỉnh Edo, Zenkai, con trai của một hiệp sĩ Nhật, trở thành người hầu cận của một quan chức cao cấp tại đó. Zenkai ngoại tình với vợ của quan chức này và bị phát hiện. Để tự vệ, hắn ta giết vị quan rồi chạy trốn cùng với người vợ. Sau này hai người trở thành những tên ăn trộm. Nhưng người đàn bà quá tham lam khiến cho Zenkai càng ngày càng khinh ghét đến phát ghê tởm. Cuối cùng không còn chịu nổi, Zenkai bỏ người đàn bà lại mà đi tới nơi xa, tận tỉnh Buzen, trở thành một người hành khất lang thang. Để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ, Zenkai quyết tâm hoàn thành một vài việc thiện trong cuộc đời. Biết rằng có một con đường nguy hiểm cheo leo trên vách đá từng là nguyên nhân gây ra tai nạn chết và bị thương cho nhiều người, Zenkai quyết tâm mở một con đường hầm xuyên qua núi tại nơi đó.

Ban ngày thì đi xin thực phẩm, ban đêm Zenkai mài miệt đào con đường hầm. Trải qua ba chục năm, con đường hầm dài được 2.280 feet, cao 20 feet và rộng 30 feet. Hai năm trước khi hoàn tất công trình, người con trai của viên quan mà Zenkai giết khi xưa, nay đã trở thành một kiếm sĩ lão luyện, tìm ra được Zenkai và tới để trả thù nhà. Biết mục đích của khách lạ, Zenkai nói: - Tôi sẽ sẵn sàng trao mạng sống của tôi cho anh. Chỉ xin hãy để cho tôi làm xong công việc này. Ngay hôm con đường hoàn thành, anh có thể giết tôi. Người con trai đồng ý đợi tới ngày đó. Nhiều tháng trôi qua, Zenkai cứ miệt mài làm việc. Người con trai càng ngày càng thêm chán nản vì cái cảnh ăn không ngồi rồi, nên bắt đầu phụ giúp công việc đào hầm. Sau khi đã giúp Zenkai trên một năm, anh ta cảm thấy ngưỡng mộ ý chí mãnh liệt và nghị lực của Zenkai.

Cuối cùng thì con đường hầm cũng đào xong và mọi người có thể sử dụng nó để đi lại an toàn. Bây giờ Zenkai mới nói:

- Công việc của tôi đã hoàn tất. Hãy chặt đầu tôi đi.

Với đôi mắt đẫm lệ, người đàn ông trẻ nghẹn ngào:

- Làm sao con có thể cắt đầu vị thầy của chính con được?”


Như quý vị đã thấy, chủ đề chính của câu chuyên Thiền này là vấn đềtội lỗi, hình phạt và sám hối. 

Đạo Phật không quan niệm rằng có quỷ thần hai vai hay một dạng thức thần thánh nào đó từ bên ngoài ghi nhận các việc thiện ác của mỗi người ngõ hầu sau khi chết đương sự sẽ phải tới đâu đó để được phán xét coi sẽ phải chịu hình phạt đầy đọa tại một nơi ghê rợn nào đó, hoặc được hưởng gì theo lệnh ban xuống từ các đấng, các bậc gì đó chăng. Mà nhà Phật cho rằng mỗi hành vi tạo tác trong cuộc đời con người ta đều để lại dấu ấn nơi kho chứa của chính mình, đó là Tàng Thức, là một trong tám Thức, theo tâm lý học của đạo Phật. Những dấu ấn đó sẽ trở thành chủng tử, tức là hạt giống, nảy nở thành thiện quả hoặc ác báo trong đời sống tương lai, có thể là tương lai ngay trong cuộc đời này, hoặc trong những kiếp sau, chi phối bởi luật nhân quả. Như thế, theo quan điểm của nhà Phật, mỗi cá nhân sẽ nhận sự báo ứng tùy theo hành vi thiện ác của mình trong cuộc đời, nếu gây tội ác thì sẽ nhận lãnh quả báo tương xứng với tội ác mình đã gây ra trong quá khứ, nhưng không do một thế lực nào bên ngoài giáng xuống mà do chính sức bật của quy luật nhân quả mà thôi.

Đến đây, chúng ta cần lưu tâm tới một điều đặc biệt tối quan trọng, đó là vấn đề Tâm của nhà Phật. Đức Phật là bậc Giác Ngộ. Ngài giác ngộ cái gì? Xin thưa rằng Ngài giác ngộ lại được chính Bản Tâm, điều mà chư Tổ Thiền Tông gọi là Kiến Tánh. Từ sự giác ngộ, Ngài trực nhận rằng chúng ta trôi lăn vào màng lưới sinh tử này là do một niệm mê từ biển Tâm dấy lên, gọi là khởi niệm huyễn vọng, rồi từ đó tạo Nghiệp, nhận quả báo, dòng đời trôi lăn miên viễn. Nhưng Chân Tâm vốn là viên mãn, hòan hảo, thanh tịnh, cũng như hoa sen dù mọc trong bùn mà không bị nhuốm mùi bùn. Một niệm Giác Ngộ thì mê vọng tan rã, cũng như người ngủ mê chợt tỉnh, như căn nhà tối hàng ngàn năm, thắp lên ngọn đèn là bóng tối tan biến. 

Về điều này, đức Phật đã dạy rõ nơi kinh Viên Giác, hòa thượng Thích Duy Lực dịch như sau:

Huyễn từ bản giác sanh, 
Huyễn diệt, giác viên mãn. 
Bản giác vốn chẳng động, 
Như tất cả Bồ Tát, 
Và mạt pháp chúng sanh. 
Thường nên xa lìa huyễn, 
Các huyễn thảy đều lìa, 
Như dùi cây lấy lửa, 
Cây hết, lửa cũng diệt. 

“Cây hết lửa cũng diệt” chính là ý của câu đức Phật nói khi ngài chứng ngộ, được ghi lại trong kinh Trung A Hàm là:

"... Tâm siêu thoát của ta không thể lay chuyển. Ðây là kiếp sống cuối cùng của ta. Từ đây ta sẽ không còn trở thành, không còn tái sanh...”


Trong các cuộc đàm luận Phật pháp, có một câu thường hay được nhắc đến, coi như danh ngôn, đó là “Kẻ cướp buông dao thành Phật”. Vì câu nói quá ngắn gọn, khiến cho một số người hiểu lầm. “Buông dao” trong câu này có hàm ý là buông cái tâm sát nhân, tâm bất thiện, chứ không phải chỉ buông con dao bằng vật chất trong khi tâm còn giữ nguyên những ý niệm xấu ác. Nếu chỉ buông con dao mà tâm ác vẫn còn thì lại có thể cầm kiếm, cầm súng vậy. 

Tại các thời kinh của nhà Phật, đều có tụng lên bài kệ:

Tội từ tâm khởi, đem tâm Sám
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thảy đều Không
Ấy mới thật là Chân Sám Hối.


Tội nói ở đây tức là nghiệp báo.

Như bài kinh Viên Giác trên, chúng ta thấy tất cả pháp giới, tội phước, nghiệp báo, đều chỉ là huyễn, đều“Huyễn từ bản giác sanh”,vốn chỉ do nhân duyên giả hợp mà huyễn hiện thành ra như là có. Nghiệp sẽ là nhân chi phối dòng đời, lặn hụp trong biển sinh tử, nghiệp thiện thì hưởng quả thiện, nghiệp ác thì lãnh quả báo ác, như bóng đi theo hình, không thoát được cái vòng lẩn quẩn. Nếu biết tỉnh ngộ mà theo các đường lối tu hành để chuyển nghiệp, từ xấu chuyển qua tốt, rồi từ tốt chuyển qua thanh tịnh, thì sẽ tiêu dung được nghiệp, ra khỏi dòng sinh tử triền miên.

Sám Hối là một trong những phương pháp tu để chuyển nghiệp. Sám Hối ở đây là “Tâm Sám”,tức là chuyển Ý nghiệp từ những tư tưởng xấu ác thành những tư tưởng lành thiện, rồi tới Thân nghiệp là thực hiện những việc lành thiện đó. Kẻ sát nhân trong câu chuyện Thiền trên đã thực hiện trọn vẹn chu kỳ chuyển nghiệp. Trước hết là trong thâm tâm, ông ta Sám Hối chuyện ác đã gây ra trong quá khứ, và muốn chuộc tội bằng cách làm việc thiện. Suốt ba chục năm trường, ông ta cần cù chỉ làm một việc là đào con đường hầm để giúp mọi người thoát tai nạn, cho đến khi con của nạn nhân tới trả thù, đòi chém đầu, ông ta cũng sẵn sàng chết cho anh này tròn bổn phận làm con, muốn báo thù cha, chỉ xin lưu mạng sống một gian ngắn đủ để hoàn tất con đường. Khi con đường đã xong, ông ta bèn nộp mạng. Như vậy, kẻ sát nhân đã buông dao, đồng thời buông luôn tâm ác, đó là trường hợp “Buông dao đồ tể thành Phật”. Sau một thời gian chứng kiến hành trình chuyển hoá của kẻ sát nhân, trước mắt người con, hình bóng kẻ thù tàn ác đã biến mất, mà chỉ còn lại tấm gương sáng của một bậc thày miệt mài trên con đường bồ tát hạnh, quên mình, hy sinh bản thân vì lợi ích của chúng sinh, cứu chúng sinh khỏi bị tai nạn hiểm nguy trên con đường núi hiểm trở, mà thôi.

Nơi phẩm Bát Nhã, kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã dạy: 

...”... Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật." 

Tâm chúng sinh thì vô thường, không cố định. Con đường giải thoát của nhà Phật rộng mở thênh thang, bất cứ ai phạm tội mà biết hối cải, chuyển hóa Tâm ác trở thành lành thiện, thì nghiệp dữ cũng theo đó mà hoán chuyển, khi“tâm được tịnh rồi tội liền tiêu”.

Bản hoài của đức Đại Giác Bổn Sư Thế Tôn là dạy chúng sinh các pháp môn tu để tới được đích cuối cùng là:

“Tội tiêu Tâm tịnh thảy đều Không”. 

Không ở đây là Tánh Không, là Bản Thể Chân Tâm Giác Tánh, là Niết Bàn, là vĩnh viễn giải thoát, là Tận Diệt tất cả Khổ vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/10/2010(Xem: 2779)
Chúng ta được sinh ra trong cuộc đời này ở một giai đoạn rất đáng lưu ý, một trong những giai đoạn ngắn ngủi khi mà những lời dạy của Đức Phật còn tồn tại trên thế gian. Những lời dạy đó là Bát Thánh Đạo— giới, định và tuệ, đặc biệt là kỹ thuật thiền Minh Sát (Vipassana) nhờ đó chúng ta có thể tu tập tâm để thấy được bản chất tối hậu của các pháp thế gian, tính chất vô thường, bất toại nguyện và vô ngãcủa chúng. Với sự phát triển của trí tuệ xả ly này, tâm chúng ta dần dần mất đi những căng thẳng, thống khổ và dục vọng, và nhờ vậy phát triển được sự bình yên và hạnh phúc chơn thực. Bài viết này được viết bằng tất cả sự khiêm tốn của một người mới vừa bước trên Đạo Lộ, trong tinh thần “ehipassiko” (đến để thấy), đặc tính của Pháp(Dhamma) vốn mời mọi người đến để thấy và thử nghiệm nó. Tất nhiên vẫn còn một đoạn đường dài phải đi, nhưng bất cứ những gì Đạo Lộ này dẫn đến không có gì phải hoài nghi cả và vì thế bài viết này, xem như một sự biểu lộ của ước muốn chân thành trong tâm, nhằm
22/10/2010(Xem: 2636)
Trong cuộc sống với muôn vàn sai khác, chúng ta ai cũng ước mơ, mong muốn mình có được việc làm ổn định, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại, có gia đình và sống hạnh phúc lâu dài nên khi được thì ta thích thú, vui mừng, đến khi mất thì ta bất an, lo lắng, buồn rầu, đau khổ. Ta cho “được” là may mắn, là hên, là hạnh phúc nên ta vui vẻ, mừng rỡ. Ta cho “mất” là thất bại, xui rủi nên cảm thấy phiền muộn, khổ đau. Được làm cho ta vui vẻ,
16/10/2010(Xem: 3062)
Liệu có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ đến. Trong hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật lý và triết học.
15/10/2010(Xem: 2584)
Đạo Phật dùng Trí-tuệ để làm một trong vô lượng phương tiện độ sanh, một phương tiện có thể nói là thù thắng để tự độ và độ tha, nên hàng xuất gia phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Đạo Phật không chủ trương dùng thần thông để hóa độ, vì ngoại đạo cũng xử dụng thần thông được. Đức Phật muốn chúng sanh, tự mình giải thoát lấy mình, nên cổ đức mới nói : “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời. Đó là : “Khai thị chúng sanh, ngộ, nhập, Phật tri kiến”, hơn nữa thần thông chỉ là kết quả của thiền định, nói thiền định sanh trí tuệ, nhưng kẻ không có trí tuệ thì không thể tu tập thiền định được, nên Đức Thế Tôn dạy hàng đệ tử lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Trong Kinh Di Giáo Đức Phật dạy : “Ta như vị lương y biết bịnh mà nói thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường”
11/10/2010(Xem: 9174)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
08/10/2010(Xem: 6187)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
06/10/2010(Xem: 13693)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
03/10/2010(Xem: 5352)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
27/09/2010(Xem: 4189)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
20/09/2010(Xem: 4706)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567