Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bệnh khổ

08/10/201310:40(Xem: 4184)
Bệnh khổ

Bệnh khổ

Thiện Tài

Đức Phật từng dạy: “Không bệnh là lợi nhất, biết đủ là giàu nhất, bạn lành là thân nhất, Niết-bàn là an vui nhất”(KinhPháp cú).Bệnh là một trong bốn nỗi khổ lớn của đời người: Sinh, già, bệnh, chết.

PHAT HOC 2.png

Đức Phật chăm sóc một Tỳ-kheo bị bệnh - Tranh PGNN

Bệnh tật chẳng những gây đớn đau cho thể xác mà còn gây khổ não cho tinh thần, cả thân và tâm đều không an ổn, khiến con người phải chịu bất lực trước nhiều việc và đôi khi trở thành vô dụng, mất đi giá trị đóng góp cho xã hội và làm lợi ích cho mình, mất đi hạnh phúc trong đời sống. Có một nhà thơ đã cảm thán về bệnh khổ như sau:“Bệnh tật đeo theo để khổ đời/Con người vì bệnh phải mòn hơi/Bệnh xui quân tử không tròn chí/Bệnh khiến nam nhi phải lỡ thời/Bệnh chuyển trần gian thành địa ngục/Bệnh mờ non nước áng mây trời/Phải chăng không bệnh là hy hữu/Nên mộng xuân hồng phải tả tơi”.

Vì thế, đúng như lời Phật dạy, không bệnh thật sự là cái lợi lớn.

Ngay cả người tu xem thân tứ đại giả hợp là hư huyễn, lấy bệnh khổ làm thuốc hay để từ đó quán chiếu, chứng thật tướng các pháp, nhưng trên bước đường tu hành nếu mang quá nhiều bệnh tật cũng gặp không ít trở ngại. Một khi chưa đạt đến “tâm bình thế giới bình”, chưa thực chứng Bát-nhã thấy “tứ đại giai không”thì vẫn không thoát khỏi những nỗi đau thân xác, những khó chịu về tinh thần, vẫn thấy bệnh tật mang lại cho mình nhiều trở ngại.

Cái thân là một phương tiện quý báu của người tu, nó là chiếc thuyền chở đạo giúp người tu vượt qua khỏi sông mê biển khổ, đến bến bờ an lạc, giải thoát. Nếu không có thân hoặc mang cái thân rệu rã như củi mục thì không sử dụng vào đâu được, hoặc chẳng thể dùng cho nhiều việc có ích. Không có cái thân hoặc cái thân vô dụng thì cái tâm không thể nào phát huy diệu dụng, cái tâm không có phương tiện biểu hiện. Tóm lại, người tu hành nếu không có sức khỏe, thân mang nhiều bệnh tật thì gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn trong việc tu học, xem như gặp phải chướng duyên. Ví dụ như người mắc phải các bệnh lý về xương khớp, cột sống, thoát vị đĩa đệm, thần kinh tọa, thoái hóa cột sống v.v… rất trở ngại cho việc tọa thiền, hành trì tụng kinh, lễ bái, làm các công tác từ thiện nặng nhọc. Có rất nhiều bệnh khi phát lên thì thân xác đau đớn, tinh thần khổ não, rất khó định tâm, tĩnh trí.

Đã mang thân người, không ai là không bệnh, chỉ có điều là nhiều hay ít vậy thôi, cũng như Tổ Quy Sơn đã nói: “Vì nghiệp buộc thọ thân, nên chưa khỏi cái khổ lụy về hình hài”(Quy Sơn cảnh sách).Vì chúng sinh tạo nghiệp mà sinh ra trên thế gian này, vì thọ nghiệp mà có thân và phải chịu những nỗi khổ lụy về thân như đau ốm bệnh hoạn, nóng lạnh, đói khát… Nghiệp đó là gì? Chính là những hành vi tạo tác từ thân, khẩu, ý do phiền não vô minh làm động lực thôi thúc, dẫn dắt.

Vì vô minh phiền não mà tạo nghiệp, vì tạo nghiệp mà phải thọ thân. Thân người do tứ đại, ngũ uẩn giả hợp, mang tính điều kiện, khi nhân duyên thay đổi thì thân người cũng thay đổi. Tổ Quy Sơn diễn tả rất rõ bản chất của kiếp người như sau: “Bẩm thụ tinh cha huyết mẹ, các duyên giả hợp tạo thành, tuy nhờ tứ đại nâng đỡ, giữ gìn nhưng chúng thường trái nghịch nhau. Vô thường, già, bệnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tối mất, chỉ trong khoảng sát-na, một tích tắc đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, móc (mù) buổi sớm, phút chốc liền tan; cây bên bờ vực, dây leo ở miệng giếng, há được lâu bền. Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng một sát-na, chuyển hơi thở đã là đời sau, sao lại an nhiên để ngày tháng trôi qua vô ích?” (Sđd).

Bốn nỗi khổ lớn sinh, già, bệnh, chết như bốn cái án đã đóng dấu chờ thi hành. Bốn cái án đó thi hành dần dà nhưng ít ai để ý đến, và thi hành kịch liệt lúc nào không ai biết trước, nhưng điều chắc chắn là ai cũng phải nhận lãnh, không một ai trốn tránh được.

Về bệnh khổ thì tùy nghiệp mà có người bệnh ít, người bệnh nhiều, nhưng không ai không bệnh. Dù người có phước nghiệp về sức khỏe, thọ mạng nhưng khi mang thân tứ đại giả hợp thì phải chịu cảnh biến hoại, do đó không tránh khỏi bệnh khổ.

Ngay cả các vị Bồ-tát do nguyện lực độ sinh mà sinh ra trong cõi đời này, khi đã mang thân tứ đại vẫn phải chịu cảnh sinh, già, bệnh, chết như mọi người khác trên thế gian. Các ngài không phải do nghiệp lực mà thọ sinh, nhưng vẫn không tránh khỏi sự biến dịch vô thường, bởi vì các vị ấy mang thân do duyên giả hợp tạo thành, có hợp sẽ có tan, hữu hình hữu hoại như lời Đức Phật dạy:“Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng” hay “Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, như ảo tưởng, ảo giác, ảo thuật; như bọt nước, như hình như bóng; như sương, như ánh chớp” (Kinh Kim cang Bát-nhã). Chỉ khác là, cũng mang thân tứ đại, phải chịu cảnh biến hoại vô thường do các duyên tan hợp, nhưng các bậc Thánh đã giác ngộ, giải thoát thì khác, thân thể dù bệnh tật nhưng tâm các ngài không phiền não khổ đau, thân bệnh nhưng tâm không bệnh.

Các bậc Thánh giải thoát có thể nhờ định lực cao thâm mà xả ly hoàn toàn khổ thọ, an trú trong trạng thái tịnh lạc vi diệu. Từ hàng Thánh A-la-hán có thể nhập Diệt thọ tưởng định để vào trạng thái không còn cảm thọ và tri giác. Tuy nhiên ra khỏi định, thân thể vẫn phải chịu đau nhức, nhưng nhờ tâm xả ly không chấp thủ, luôn nhiếp tâm chánh niệm, có định lực và tuệ giác mà các ngài vẫn tự tại, an lạc, vượt thoát khổ não.

Vì thế, người tu học Phật không phải cầu không bệnh tật, mà là cầu không khổ não khi bệnh tật. Có nghĩa là tu làm sao để đối trước cảnh vô thường, biến hoại, tâm vẫn an nhiên bất động, không phiền não khổ đau như thế nhân thường tình. Muốn được điều đó chỉ có cách duy nhất là thường tinh tấn huân tu thiền định, trí tuệ, công đức, phước báo.

Khi mang thân tứ đại giả hợp thì không cách gì tránh khỏi bệnh tật, bởi con người và cõi thế gian là do duyên sinh nên vô thường, biến hoại, chỉ có cách là tu tập đến cảnh giới “không có người thọ bệnh khổ”, tâm vô trụ chấp, thể nhập tánh không, chứng thực tại vô ngã.

Ý thức được bệnh khổ gây nhiều trở ngại cho việc hành trì, tu tập, cho nên người tu cần phải nỗ lực tinh tấn học pháp, hành pháp, tận dụng thời gian còn trẻ, còn khỏe mạnh, chưa bệnh tật để học, để tu, để gieo trồng ruộng phước, vun bồi công đức. Không đợi đến khi vô thường xảy đến, thân thể ốm đau bệnh tật hoặc già nua, không còn sức khỏe, không còn đủ sự tỉnh táo, sáng suốt mới lo tu. Khi vô thường xảy đến, bệnh khổ hoành hành thì không dễ gì tu tập, cũng như lời Tổ Quy Sơn nhắc nhở: “Một mai bệnh tật nằm trên giường, các nỗi khổ dồn đến vây quanh bức bách. Sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ hoang mang. Đường trước mịt mờ chưa biết về đâu. Bấy giờ mới biết hối hận ăn năn, đến khát đào giếng sao kịp?”.

Như thế thì cần phải có sự chuẩn bị tâm lý, chuẩn bị hành trang cho mình trước khi vô thường xảy đến, để khi gặp cảnh tai nạn hoạn họa, ốm đau bệnh tật chúng ta không hoang mang lo lắng, không sợ hãi, không hối tiếc, ăn năn.

Còn khi đối diện với bệnh tật thì sao? Trạng thái tâm vững chãi không dao động, xúc não là điều rất quan trọng. Muốn được như thế cần phải có công phu tu tập do lúc bình thường huân tập, và công phu đó được duy trì tốt, vững chắc trong lúc bệnh tật. Pháp hỷ, pháp lạc có được trong quá trình nghe pháp, ôn lại giáo pháp, quán niệm và hành trì, an trú trong chánh định và tuệ quán sẽ giúp người bệnh vượt qua những nỗi đớn đau thể xác hoặc làm giảm thiểu những nỗi đau đó, đồng thời tâm không rơi vào các trạng thái khổ não. Trong Tương ưng bộ kinh III (chương I, phần Nakulapità), Đức Phật dạy vị gia chủ già nua Nakulapità đang quằn quại trong bệnh khổ như sau:

“Này gia chủ, quả thật là thân ông bệnh hoạn, ốm đau. Ai mang cái thân này lại cho là không bệnh, dù chỉ trong giây phút, người ấy là người ngu si. Do vậy, này gia chủ, ông cần phải học tập như sau: ‘Dù cho thân tôi có bệnh, tâm tôi sẽ không bị bệnh’. Này gia chủ, ông cần phải tu tập như thế”.

Lời dạy của Đức Phật không chỉ dành cho gia chủ Nakulapità mà còn dành cho tất cả chúng ta, giúp chúng ta chuẩn bị tâm thái để vững vàng vượt qua bệnh khổ.
Nguồn:giacngo.vn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5722)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 15568)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4971)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5496)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5581)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5464)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6163)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 5015)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4851)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 16106)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]