Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phía sau văn bản của đời người

03/09/201307:40(Xem: 3415)
Phía sau văn bản của đời người


ducphatthichca

Phía sau văn bản đời người
 

 

Phật pháp là ngôi nhà chung của nhân loại. Nhưng những ai theo cuộc sống tạm bợ trần ai vẫn còn ngại ngùng bước vào. Một bài viết pha chút giáo lý nhẹ nhàng, người ta tạm gật đầu; thêm về thuyết nhân quả luân hồi người đọc hoài nghi; sâu thêm vào các tầng trời cõi Phật, về Tam giới liền bị chối. Cũng như một người bỗng đâu ai đó ngồi bên tỉ tê nghiệp quả phước báo, nghe chút thì vui vui gật gật, thêm nữa liền kêu đủ rồi.

Cuộc sống vật chất luôn tích trường nghiệp lực che lấp phần minh tuệ. Ấy nên Jesus mới phản tỉnh: Người giàu muốn vào nước Chúa cũng khó như con lạc đà chui qua lỗ kim. Nói vậy dễ bị quy kết con người đi thụt lùi, xã hội không phát triển. Về con người, hãy làm một phép so sánh mối quan hệ trong gia đình, mối quan hệ thầy trò và họ hàng làng xóm ngày xưa với đời nay thì rõ nhất ở mặt hiếu - lễ - kính. Về mặt xã hội, người ta cũng sẽ bảo Tây Tạng là vùng đất lạc hậu chậm tiến. Sự lạc hậu chậm tiến đó nay cả nền khoa học triết học thế giới đổ về nghiên cứu khám phá, học và hành.

Tâm lý học Phật giáo Duy thức đã giải phẫu tỉ mỉ con người ở Tâm lý học và cả Y học hiện đại cũng thán phục. Kiếp trước kiếp sau cũng là sự thật hiển nhiên theo cái nhìn khoa học. Thời điểm cuốn Tử Thư Tây Tạng ra đời từ thế kỷ thứ VIII, nó “giấu mặt” suốt 6 trăm năm để người đời đủ thời gian tỉnh táo tiếp nhận. Nhưng tác giả cũng không ngờ là cho đến nay, khi được dịch ra nhiều thứ tiếng nó vẫn nằm bụi bặm ở các quầy sách lớn trên thế giới. Người ta hoài nghi, e dè kiêng kị, sợ chạm vào nó kiểu như chạm vào xác chết. Mà đâu ai tránh được cái chết. Ngay cả tỉ phú đủ tiền mua một thành phố, vẫn chết rất trẻ. Nếu con người điều khiển được quy luật nhân quả, hẳn nhiên các tỉ phú là người sống thọ nhất. Khi cái chết chiếm lấy thân, giống như ta (không hay) được trang bị thở bình ô xi rồi nước dâng lên quá đầu… ta mới à lên thì ra sự sống vẫn tiếp diễn. Sự tu tập sẽ có cơ may sau khi người ấy trải vòng luân hồi hắc ám trong các nẻo. Phủ nhận nhân quả luân hồi là phủ nhận khoa học hiện đại; phủ nhận hành trì tâm linh, dẫu là thiên tài chết đi “thiên tai” sẽ phủ trắng những gì ta có. Trôi lăn khổ não qua nhiều kiếp, phải ăn mày từng câu kinh mong được siêu thăng. Người ta vẫn thường xây lăng mộ cho người thân và xem đó là ơn đức. Thay vì xây lăng mộ, nên dùng tiền đó giúp kẻ bần khó, phóng sanh hành thiện may ra người thân bên kia mới như cánh diều được cắt dây. Còn không họ chỉ chia nghiệp dữ từ việc phung phí tiền của vào lăng mộ cho mình. Nhiều nhà ngoại cảm ra nghĩa trang thấy vô vàn người đứng ngồi san sát. Hầu hết còn bị nghiệp trì níu. Những vong hồn ấy như vô vàn quả bóng. Việc cứu chuộc không đơn giản dùng kim chích vào cho nổ tan. Họ chỉ biết mình đang chịu nghiệp (đứng đó), không biết bao giờ mới được độ nếu thân nhân không ngày đêm tích phước hồi hướng. Người ta lại sẽ thốt lên, xưa xa đến nay ông bà tổ tiên nội ngoại bao người đã sống và chết đi có ảnh hưởng gì đến sự sốngngười dương? Nhưng, chúng ta có biết và có tìm hiểu những người đã mất họ giờ ở đâu, là ai? Hẳn ta không dám biết? Phật pháp với lòng tư bi vô hạn đã giấu giùm chúng ta.

Người Ai Cập linh cảm được “điều gì đó” sau cuộc đời nên xem cõi này tạm bợ, mới xây Kim tự tháp; dĩ nhiên đây lại là một bước sai lầm, bởi để chuẩn bị cho kiếp sau chỉ xây cho mình một nấm mộ lớn thì quá đơn giản. Dân gian có câu “sống gửi thác về”. Thần Chết là một mãnh hổ từ nhỏ sống trong rừng sâu địa thẳm, sa bẫy. Người ta do vật chất che mờ nên không biết Thần ấy đã được thuần dưỡng, nên chẳng bao giờ dám thân cận vuốt ve. Người ta nhìn Thần Chết với ánh mắt lạnh lùng, để rồi Thần Chết đối với người đó khô kiệt tình người, ác tâm dần dần khôi phục.

Sống trong vòng tay của Đạo, con người sẽ an bình tự tại. Chấp dùng vật chất làm thần hộ mạng chẳng khác ta tự tù đày cuộc sống của mình. Từ cái mũ bảo hiểm nhỏ, người ta kiếm cho bằng được tiền tậu cái “mũ bảo hiểm lớn”, tậu danh vọng rồi sanh tâm kiêu ngạo. Con người có đại ngã thì trên đầu họ không phải bầu trời mà là cái vung! Ai cũng có quyền hưởng thụ. Có tiền, ai cũng có quyền ăn uống xả láng nếu trên hành tinh xanh không còn vô vàn người chết đói; ai cũng có quyền xả nước sạch ào ào, tắm bồn hàng ngày nếu trên trái đất này như ở vùng châu Phi không còn người dật dờ bước hàng chục km để được uống một hớp nước; ai cũng có quyền thắp ánh sáng suốt đêm (mà chẳng để làm gì) và phung phí các thiết bị xài điện vô ích khác nếu như một phần của trái đất không chìm trong bóng tối. Nếu như những vùng nghèo đói thiếu điện thiếu lương thực thiếu nước, thiếu đủ thứ ấy được dời đến gần thành phố chúng ta… Không cần ống nhòm hay kính viễn vọng; nhìn bằng con mắt của đạo, tất thảy nỗi đau đều bên cạnh chúng ta.

Sự tích nghiệp dường như vô tình và nằm ngoài sự kiểm soát sẽ khiến con người cõng đá bước trong đầm lầy ở bên kia núi. Hay nghiệp ấy sẽ là trùng trùng đất đá tấp lên thân xác... Ví cái chết như thay áo, chưa đủ. Ta tích nghiệp, kiểu như một con rắn oằn oại lột da. Quá nặng nghiệp thì gần như chính ta lột da mình. Cái đau rên xiết ấy sẽ thấm dài vô tận. Người đời vẫn dạy con cháu sống cho xong kiếp này hẵng tính. Có thể ví sự sống như một viên kim cương luôn bất ly thân, và rồi tên trộm (thần chết) sẽ nhón đi bất cứ lúc nào bạn lơ đễnh. Nếu có ông thầy bói cực giỏi xem chính xác số mạng, liệu ai có dám đối diện với thông tin kinh hoàng đó. Hay, ai cũng vô tình “muốn” cái chết đến bất ngờ.

Cái chết dẫu đến bất ngờ chăng nữa, thì nó cũng không quan trọng nhiều nếu phía sau đó là số 0. Thử tưởng cái chết đến với ta... hay ngược lại cái chết đến với người thân; ta tiễn họ lên con tàu về vô xứ. Họ không có gì mang theo, trong lúc ta chẳng có một đồng (phước đức) dúi vào tay họ; ứa nước mắt trước cảnh họ lầm lụi trong mù mịt, vừa lê bước vừa xin ăn, rồi bao tai ương chướng ngại như thác lũ... Thầy Drakpa Gyaltsen có nói: “Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để thình lình bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị”. Nếu biết tin sau sự sống này là một sự sống khác vô tận với biết bao trầm luân, với biết bao kiếp nữa phải kinh qua hẳn con người đã không tranh giành giẫm đạp nhau chạy theo xa hoa. Nếu an tu tự tại, một bữa ăn vài món rau cỏ, người ta vẫn vui so với bữa đại tiệc mà kẻ dự phần vẫn thấy món này nấu chưa đạt, món kia còn thiếu một vài hương vị... Nhiều người băn khoăn sao nhà sư phải tự rước khổ, đâu biết họ quá ư hoan hỉ. Vật chất không thể là thước đo an lạc. Thật nghịch lý khi cha mẹ tích trữ tiền bạc đến cả đời con sống vương giả thỏa thuê. Những đứa trẻ đó sẽ chỉ chú tâm vào việc tiêu tiền và tích nghiệp. Kho tàng mà chúng ta để lại cho con cháu không nên vàng bạc châu báu mà nên là kho tàng tâm. Từ nhỏ một đứa trẻ đã bị gánh nghiệp. Với một gia đình có mức sống khá, trong dăm năm đầu chúng đã không thiếu thứ gì, nhất là khoản ăn mặc. Từ nhỏ chúng không nếm khổ. Nhiều cha mẹ còn ép con dùng thịt và hải sản thay cơm. Chúng sẽ chịu hai loại nghiệp: Về tâm linh là nghiệp sát do ăn mặn; về khoa học chúng sẽ mang bệnh do thừa chất. Bệnh vốntừ nghiệp tích tụ trong tâm. Tâm là ngọn đèn của thân. Đèn sáng thì thân vô nhiễm. Rồi sự chiều chuộng, vun vén vị kỷ... Cha mẹ cũng hại con? Đúng, bởi họ không biết mình đang bơi ngược dòng minh triết.

Phật pháp không phải là miếng mồi giơ ra để con người nổi tham chụp lấy. Trong kinh Phật lý giải tiến trình khám phá chân lý phải theo nguyên lý Tín - Giải - Hành - Chứng. Người phàm chúng ta bởi luôn bị điều động bởi Tham - Sân - Si - Mạn nên nếu không thực hành tâm pháp, cao lắm chỉ đạt mức Tín và Giải, tức “thế trí biện thông” - một trong tám nạn ngăn chặn sự tiến hóa vận mạng. Đại diện của khoa học đến như nhà bác học Albert Einstein chứng nghiệm thành tựu trọn đời đã phát biểu: "Chỉ tri thức và kỹ năng thôi không thể dẫn dắt loài người đến một cuộc sống hạnh phúc và có phẩm giá được. Những người khai sinh ra các chuẩn mực và giá trị đạo đức cao quý luôn xứng đáng được nhân loại đề cao hơn những người khám phá ra chân lý khác quan…. Những gì nhân loại chịu ơn những nhân cách như Đức Phật, Moses và Jesu đối với tôi còn cao hơn tất cả thành tựu của những bộ óc khám phá và phát minh". Tin khoa học, nên tin điều khoa học đã chứng minh trước nền văn minh chúng ta từng có những nền văn minh tột đỉnh khác đã hủy diệt. Khoa học cho biết loài người tiến hóa từ khỉ là phi lý, song trong đầu ta lúc nào cũng mặc con khỉ nhảy múa trêu đùa!

Con người hiện hữu trên trái đất do duyên nghiệp từ các kiếp trước. Đức còn, nghiệp chưa sờ đến. Đức vơi, là lúc nghiệp đánh hơi, tâm rối, tướng mạo bắt đầu mất dần sắc khí. Nhiều người tiền bạc phủ phê; cũng như các dòng tộc sống ác vẫn còn chút bình an là bởi phước họ quá nhiều, một đời xài chưa hết. Dấn thêm vào đời sau hoặc sau nữa họ sẽ lâm nguy và có khi nghìn vạn kiếp chưa thấy mặt trời. Tất cả những điều này nói ra sẽ là viễn vông đối với những ai không tin Đức Phật là bậc đại trí huệ. Người Tây Tạng có nghi lễ: vẽ bức tranh tuyệt mỹ bằng một dạng màu như cát. Mandala. Họ vẽ trong chánh niệm, trong cõi thiền tuyệt tĩnh mất hàng tuần mới xong. Đỉnh cao nghệ thuật. Mê hồn. Song vừa lúc bức họa hoàn thành liền bị xóa đi. Đời người cũng như vậy. Bòn rút thời gian tô vẽ trau chuốt, đẹp như bức tranh kia cũng trong một giây thôi. Có thông điệp nào thâm thúy đến vậy. Tử thư Tây Tạng, xem là chìa khóa mở mở một góc nhìn về kiếp khác, bắc cầu đến ánh đạo vàng. Để nhận chân sự hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu như lời Phật. Để biết mình sẽ phải đi về đâu. Để biết đạo Phật đã thấm vào căn cốt của người Tây Tạng từ hàng chục thế kỷ trước nên ở họ luôn toát ta đức khiêm cung và hương bát nhã.

Tạng thư sống chết của Sogyal Rinpoche viết:

“Nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: “Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?” Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...”.

“Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong lúc ta đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới. Ta sẽ không thể sống cuộc đời mình một cách viên mãn, ta sẽ cứ bị giam hãm trong cái phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản của cuộc hành trình tiến đến giác ngộ”.

Biết về sự sống sau cái chết, chắc chắn ai cũng lo chuẩn bị cái chết. Tức hành trang về cõi chết luôn sẵn trong tâm. Nhiều người suốt đời chuẩn bị cho cái chết vẫn chưa đủ tự tin để chết, huống hồ chỉ lo đến tờ di chúc và những gì bày biện dưới cái rạp tang. Trong ngàn vạn pháp môn làm phương tiện cho người thoát bể khổ, Tịnh độ tông chủ trương niệm "A Di Đà Phật", niệm đến nhất tâm khi chết sẽ từ cõi Cực Khổ bay về Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Nhưng ai đã niệm Phật mới hiểu không dưng chưa hề gội rửa bằng thiện nghiệp lại có thể định tâm. Tương đương với việc cuộc sống của họ phải như nhiên không hề nhúng tay vào cấu uế, và trong đầu hễ không phải lo việc thế gian thì luôn luôn "A Đi Đà Phật", lúc ngủ cũng như thức đều sống với câu hồng danh khai trí tuệ và huệ mạng này. Trong tâm họ luôn có "A Di Đà Phật", và cái chết dẫu đột ngột viếng thăm thì xem như nắm được vạt áo của Đức Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí tiếp dẫn về cõi Tịnh. Chuẩn bị cho cái chết, nó đâu ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ta. Nó chỉ “cướp đi” sự ích kỉ hẹp hòi trong mỗi ta thôi. Phú quý sinh lễ nghĩa. Chúng ta quá sa vào lễ nghĩa. Lễ dành cho cái chết thật ra chỉ quan trọng khoảng một giờ trước lúc người ta tắt thở và sau đó khoảng 9 tiếng yên tĩnh ngoại trừ lời khai thị giúp họ bước qua cánh cửa màu đỏ. Sau đó cái xác... vô dụng. Thế nên ở Tây Tạng mới có tục Thiên táng (để xác trên núi cao "cúng dường" cho lũ kền kền có được bữa no).

 Hiểu Đạo Phật không khó. Khó là ta chỉ hiểu mà không chịu hành; không mang thai nghi tình nên chẳng thể nào khai phóng bản thể. Học rồi hành rồi soi trở lại những điều mình học, sẽ cảm được niềm vui khôn tả. Ta hiểu thiền là meditation (suy tư mặc tưởng...), lúc hành thiền sẽ nhận ra ngôn ngữ không thể diễn đạt linh nghĩa Thiền và diệu lý của Tịnh. Lời Phật vang đến ngàn sau: "Cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi vòng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát. 49 năm thuyết pháp, trước lúc nhập diệt Phật Thích Ca lại bảo “Ta chưa nói điều gì”. Là sao? Bởi: (1) Ngài bảo ta chỉ hoàn toàn thuật lại lời dạy cổ Phật (như Khổng Tử nhận mình nói lại lời cổ thánh không thêm bớt không sáng tạo - thuật nhi bất tác); (2) Lời Phật như thuốc trị bệnh; Ngài sợ đời sau chấp văn tự là chân lý - như uống nhầm thuốc, nên “ngón tay chỉ trăng” phải rụng; (3) Theo lý Bát nhã, mọi lời nói của Phật đều tuôn chảy từ Tự Tánh, nên nói mà không nói, ấy là nghĩa Vô Trụ; ai chấp lời nói thành ra Có Trụ mất rồi; (4) Một lời trong kinh điển gồm vô lượng nghĩa. Đời sau dựa trên mặt ngữ nghĩa diễn dịch theo ý mình thì đã phần nào sai biệt (Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan/ Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết); (5) Phật muốn mỗi người “hãy tự thắp đuốc mà đi, đừng dựa vào ai khác; hãy y vào chánh pháp” soi đường.

Nếu ta không tự đập bức tường ngăn giữa hai cõi sống - chết; chúng ta không tin nhận lời Phật dạy, ban phát tâm từ đến tha nhân gắng sống một đời phạm hạnh thì sẽ không ai cứu được. Dẫu Phật ngậm tiếng hàm oan bỏ mặc muôn loài.

N.N
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2019(Xem: 4910)
Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng, giá trị cốt lõi của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay,hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướngtìm về sự thật, mộtgiải pháp cứu cánh, rốt ráo, an toànvì ‘hòa bình bền vững’, xã hội trật tự vàngày ngày an lành ... Hòa chungtrách nhiệm, bản hoài, thông điệp : ‘Chân lý chỉ có một’,[1]đồng nghĩa với ‘Sự lãnh đạo bằng chánh niệm’ qua cách tiếp cận của Phật giáo, mang vạn niềm vui đến với muôn loài. Thật vậy, Phật giáo với trọng trách mang ‘an vui lâu dài’, là nội dung cốt lõi của xã hội nhân loại, cũng là tiền đề cho một xã hội bền vững;trong đó mỗi cá thể cần củng cố,xây dựngnội tâmkiên cố dựa trên phương cách lãnh đạo bằng‘chánh niệm’, đểcùng nhìn lại, quán chiếu và cùng dẫn đến trách nhiệm sẻ chia …
29/06/2019(Xem: 6910)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 3704)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7019)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4145)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 8525)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 3857)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
18/10/2018(Xem: 3754)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 7232)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 6786)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567