Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Danh hiệu thứ tư: Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát

18/09/201215:28(Xem: 9483)
4. Danh hiệu thứ tư: Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát

Ý NGHĨA CHÂN THẬT VỀ PHẬT GIÁO

Thích Hạnh Phú

IV. Ý NGHĨA CỦA CÁC DANH HIỆU PHẬT, BỒ-TÁT[2]

IV.4. Danh hiệu thứ tư: NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT

HoặcNAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT

Trong văn hóa truyền thống của người Á Đông chúng ta, có lẽ danh hiệu của hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Bồ-tát là gần gũi, thân quen đối với mọi người. Bởi vì lúc còn sống, mỗi khi gặp chuyện đau khổ, nguy nan, chúng ta liền nghĩ ngay đến Quán Thế Âm Bồ-tát như một niềm an ủi, động viên về tinh thần. Đến lúc mất (chết) thì nương nhờ vào Địa Tạng Bồ-tát mong Ngài xót thương đưa đường dẫn lối thoát khỏi nơi đau khổ của chốn địa ngục. Đời người còn việc gì lớn lao hơn sống và chết, như trong “Ngũ phước lâm môn”, mọi người hay mong cầu không ngoài mục đích lúc sống mạnh khỏe, bình an, phát tài, làm việc tốt, lúc chết được tốt lành(không bệnh tật). Chính vì thế mà hình tượng danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng cũng được nhiều người biết đến. Vậy ý nghĩa danh hiệu và hạnh nguyện của Ngài là gì?

Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát.

Đại: nghĩa là lớn, to, rộng.

Nguyện: là lời phát nguyện. Nói cho dễ hiểu là lời thề thốt hứa hẹn của mình về một vấn đề gì đối với ai đó.

Địa: nghĩa là đất, còn được hiểu là tâm địa của con người.

Tạng: nghĩa là hàm tàng, chứa đựng, nơi cất giấu.

Bài Tựakinh Địa Tạngnói: “Địa là dày chắc. Tạng chứa đủ”. Kinh Địa Tạng Thập Luậnnói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương Quảng Thập Luậnnói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng lại thì Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.

Vương: nghĩa là vua. Do bởi lời phát nguyện cao thâm rộng lớn khó hành “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề” nên Ngài được “chư Phật ba đời đồng khen chuộng. Mười phương Bồ- tát chung tin tưởng”là vua trong các vị Bồ tát.

Bồ-tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa số chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ Tỳ-lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con đế-thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên Ngài mang hình ảnh một vị xuất gia giải thoát.

Dia_Tang_Bo_Tat

NamMô Địa Tạng Vương Bồ Tát - ảnh minh họa

Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa rằng, Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên (Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử) để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị Trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh (địa ngục), khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát khỏi ngục hình. Con đế thính mà Bồ-tát cưỡi là linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất. này biểu trưng ý nghĩa rằng Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.

  • Hạnh nguyện của Địa Tạng Bồ-tát.

Trên bước đường tu hành, nếu như muốn đạt đến ngôi vị Phật quả, đều phải trải qua giai đoạn hành Bồ-tát đạo, nghĩa là mỗi vị Bồ-tát như Quán Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, Di-lặc, v.v… đều phải phát những hạnh nguyện độ sanh. Tùy theo từng vị mà phát những hạnh nguyện khác nhau, có vị phát nhiều hạnh nguyện, có vị phát ít hạnh nguyện, tất cả không ngoài mục đích là cứu độ chúng sanh, ban vui, cứu khổ mọi loài. Trong đó, thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì sâu dày, rộng lớn hơn so với các vị Bồ-tát khác. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Kiên Lao Địa Thần, thứ mười một. Kiên Lao Địa Thần đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ-tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ-tát đây so với các vị Bồ-tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”. Chúng ta thấy lý tưởng và công hạnh của ngài Địa Tạng Bồ-tát được đức Phật mô tả rất nhiều qua các kinh điển Đại thừa như: Phật Thuyết Đại Phương Quảng Thập Luân kinh, Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luân kinh, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo kinh, Phật thuyết La-ma-già kinh, Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm kinh-Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Hoa Nghiêm Thập Ðịa kinh, Ðại Thừa Bổn Sanh Tâm Ðịa Quán kinh, Phật Thuyết Bát Ðại Bồ-tát kinh, v.v…

Đặc biệt, trong Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh, Đức Phật kể lại những chuyện tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng trong khi hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh. Qua đó, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh. Điều này thể hiện qua bốn phẩm kinh sau:

1. Phẩm thứ nhất: “…Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị trưởng giả. Nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo”.

2. Cũng trong Phẩm thứ nhất: “…Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.

3. Phẩm thứ tư: “…Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất đức độ, thương dân… nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ, làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thì tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.

4. Phẩm thứ tư: “…Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… Vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác”.

Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Địa Tạng Bồ-tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện. Chính vì thế, tông chỉ bộ kinh này được Hòa thượng Tuyên Hóa tóm tắt trong tám chữ: “Hiếu đạo - Ðộ sanh - Bạt khổ - Báo ân”. Do vậy kinh này cũng được gọi là Hiếu kinh của Phật giáo. Nội dung bộ kinh này, đức Phật thuyết giảng về công hạnh tối thắng của Địa Tạng Bồ-tát qua những tiền kiếp của Ngài, đặc biệt là hiếu hạnh và sự độ sanh của Ngài. Trong kinh Đại thừa, đức Phật đã từng nói: “Tất cả chúng sanh là cha mẹ ta trong quá khứ và là chư Phật ở vị lai”. Với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, cộng với lời phát nguyện vĩ đại “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề.” của Ngài, thì hình ảnh và hạnh nguyện của Ngài đã phần nào phát họa minh chứng câu nói trên của đức Phật.

Ngày nay, hàng Phật tử chúng ta mỗi khi niệm danh hiệu Ngài, nên phải nhớ tưởng đến những công hạnh, thệ nguyện vĩ đại ấy. Chúng ta phải học theo, lấy Ngài làm tấm gương soi sáng cho chúng ta noi theo. Khi gặp chúng sanh nào đang khó khăn, đau khổ, chúng ta phát khởi từ tâm giúp đỡ trong khả năng của mình có thể, làm được như thế thì khi niệm danh hiệu Địa Tạng mới tròn đầy viên mãn công đức, sẽ cảm ứng đạo giao với Ngài.

Nếu như danh hiệu Quán Thế Âm tiêu biểu cho đức tính Từ bi thì danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát tiêu biểu cho hạnh Nhẫn nhục. Vì từ trên ý nghĩa danh hiệu chúng ta thấy được điều này. Địa là đất, cho dù chúng ta đổ nước dơ (bẩn) hay sạch sẽ thì đất vẫn hấp thụ, không một lời khen chê, oán trách, giận hờn. Ngược lại với tấm lòng bao dung rộng lớn của mình, đất còn là nơi dung chứa sự sinh sống, phát triển của các động vật, thực vật. Địa còn có nghĩa là Tâm (tâm tánh). Trong cuộc sống hằng khi Phật tử chúng ta đối người, đối sự, đối vật phải có tâm nhẫn nhục giống như đất, không bị những tiếng khen-chê, được-mất, hơn-thua, đúng-sai, phải-trái, v.v… làm động tâm. Nếu làm được như thế thì mọi công đức, phước đức cũng đều từ tâm này mà sinh ra.

Như phần trên người viết đã đề cập, danh hiệu Phật biểu thị cho tánh đức. Còn danh hiệu Bồ-tát biểu thị sự tu đức. Tánh đức của chúng ta là Từ bi và Thanh tịnh. Khi mê, tánh đức của tự tánh không hiển hiện, chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại bi, hiện tại chúng ta đối với người, với vật, một chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến tối bị nhiễm phải danh văn (danh tiếng), lợi dưỡng (vật thực), ngũ dục (tiền tài, sắc đẹp, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ), lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), nghĩa là mắt thấy sắc đẹp, xấu; tai nghe âm thanh khen, chê; mũi nghe mùi thơm, thối; lưỡi nếm mặn, ngọt; thân xúc chạm êm ấm, mềm dịu, khô cứng. Ngày nay, chúng ta đã quên mất tánh đức từ bi và thanh tịnh của ta vốn sẵn có từ lâu; do đó khi tiếp xúc với ngũ dục liền bị nó làm mê muội, gây ra không biết bao nhiêu là tội. Để rồi luân hồi trong sanh tử triền miên, mất thân thọ thân như bánh xe quay vòng lên cao rồi lại xuống thấp. Vì vậy, niệm danh hiệu Bồ-tát (tu đức) nhằm giúp chúng ta khơi dậy, đánh thức tánh đức của chính mình. Thực hành theo hạnh nguyện của các Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2011(Xem: 3934)
Phật giáo tuyệt nhiên không phải là tôn giáo, mà là một giáo dục chí thiện viên mãn, hơn nữa nó cũng không quá cao cả để người quỳ lạy, mà làđối với đời sống của tôi và bạn kết hợp với nhau một cách chặt chẽ.
27/03/2011(Xem: 5406)
Đây là câu hỏi liên quan đến sự chứng ngộ Niết Bàn củađức vua Milinda (Mi Lan Đà) và phần trả lời của Trưởng Lão Nāgasena (Na Tiên).Phần này được trích dịch từ tác phẩm Milindapañhā -Milinda Vấn Đạo. Hy vọng rằng văn bản này có thể giúp ích được ít nhiềucho các hành giả đang tinh cần tu tập giải thoát. - TỳKhưu Indacanda.
21/03/2011(Xem: 10455)
HỎI: Một tín đồ Phật giáo trước hết phải hiểu vàphải làm những gì? ĐÁP: - Trước hết là phải hiểurõ những điểm căn bản của Phật dạy, thứ đến là phát lòng chánh tín Tam Bảo, cuốicùng là thực hành năm điều răn dạy trong đời sống hằng ngày của mình.
28/02/2011(Xem: 8991)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ" nhân ngày húy nhật lần thứ 18 của Ngài. Công trình này vừa được tái bản đúng vào dịp kính tưởng niệm lần thứ 27 ngày Ngài viên tịch (2 /3 / Giáp Tý -2/3/Tân Mão) với sự bổ sung và chỉnh lý công phu, hình thức rất trang nhã, in thành 5 tập (thay vì 3 tập trong lần in trước). Giác Ngộ trích phần Lời nói đầu, trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
14/02/2011(Xem: 7790)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
01/02/2011(Xem: 4194)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, nhau tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập, đó là Tu-đà-hoàn (srota-āpanna) còn gọi là nghịch lưu quả, Tư-đà-hàm (sakradāgamin) còn gọi là Nhất lai quả, A-na-hàm (anāgāmin) còn gọi là Bất hoàn quà và, A-la-hán (arhat) tức là A-la-hán quả.
01/02/2011(Xem: 5123)
Đây là bốn phương pháp thu phục, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát.
25/01/2011(Xem: 4171)
Sự hiện hữu hay hủy diệt của một thực tại giả hợp, chúng luôn luôn tùy thuộc vào nhân và duyên có được, từ nơi định luật vô thường khởi-diệt của nhân sinh và vũ trụ, đã nói lên tính dung thông vô ngại của nguyên lý Duyên khởi tính không các pháp đối với cuộc sống.
25/01/2011(Xem: 4486)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình, trong muôn nghìn pháp môn mà đức Đạo sư đã để lại.
22/01/2011(Xem: 5871)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]