Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bố thí với tâm thành

22/01/201103:49(Xem: 3805)
Bố thí với tâm thành

BỐ THÍ VỚI TÂM THÀNH

Thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng giả Tu-đạt là nhà giàu nhất nước Kiều-tát-la do vua Ba-tư-nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma-kiệt-đà, mua bán xong ông về nhà người anh rể nghỉ ngơi. Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra ngõ đón tiếp ân cần, nhưng hôm nay ông thấy không ai để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông lấy làm ngạc nhiên hỏi người anh rể, thì ra cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu-đạt thắc mắc với người anh rể:

- Phật là gì mà mọi người tôn kính đến thế?

Người anh rể bảo rằng:

- Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-đạt-đa, con vua Tịnh-phạn và Hoàng hậu Ma-da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà ông từ bỏ ngôi vị, cung điện nguy nga, vợ đẹp, con xinh xuất gia tu hành, nay đã chứng quả Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tu-đạt nghe qua, bổng trong lòng cảm thấy bồn chồn muốn được gặp đức Phật ngay tức khắc, nhưng lúc này là ban đêm, trời tối đành để lại sáng mai. Vì mong mỏi gặp đức Phật nên cả đêm hôm ấy ông thổn thức trong lòng không thể nào ngủ được.

Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật tịnh dưỡng. Vừa vào tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu-đà Cấp Cô Độc, thời cơ đã đến rồi đó.” Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái tên Tu-đà của ta chỉ có người trong gia tộc ta mới biết và không ai được gọi, thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình cái tên này? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngơ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới gần ông và nói rằng:

- Ta là người mà ông muốn gặp đây.

Tu-đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy dấy lên niềm phấn khởi vô biên đến rơi nước mắt. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.

Nghe xong bài pháp, Tu-đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là được vào dòng Thánh, không còn đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam Bảo, giữ năm điều đạo đức và phát tâm cúng dường hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin đức Phật cho xây dựng một Tịnh xá lớn để chư Tăng có chỗ tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông.

Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp đức Phật, ông càng mở rộng lòng nhân từ.

Từ đó, ông đi tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, để xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư Tăng tu tập, hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào vừa ý ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-đà con vua Ba-tư-nặc. Biết Thái tử không bao giờ bán đất, nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ-đà bảo rằng:

- Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với điều kiện ông về đem vàng miếng trải đến đâu tôi bán đến đó.

Không ngờ, Cấp Cô Độc đồng ý, cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Trong lúc chờ người nhà chở vàng đến tiếp, ông đứng trầm tư, Thái tử Kỳ-đà đến hỏi:

- Ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?

Cấp Cô Độc trả lời:

- Thưa Thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem lấy vàng ở kho nào cho thuận lợi mà.

Nghe vậy, Thái tử Kỳ-đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức Phật và Tăng đoàn, Thái tử tuyên bố:

- Kể từ giờ phút này, đất khu vườn này thuộc về ông, ông được quyền xây dựng Tịnh xá cho chư Tăng tu tập, tôi chỉ nhận số vàng theo giá trị đất, còn rừng cây trong vườn tôi xin dâng cúng cho Tăng đoàn của đức Phật.

Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc…Đâychính là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ-đà cúng dường. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp, đức Phật đã trú tại Tịnh xá này trong 25 mùa An cư kiết hạ.

Nói về Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng chí thành chí kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng cạn kiệt, như trăng sáng đến lúc tàn, như bị lũ lụt cuốn trôi, ông hết gia tài sự nghiệp, cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn sớt bớt phần ăn của mình để cúng dường chư Tăng, mặc cho đức Phật khuyên ông không nên cúng dường nữa.

“Sau cơn mưa trời lại sáng,” “hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai,” chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn mua bán trúng mùa, làm gì trúng nấy, lợi nhuận thu được nhiều vô số kể, ông có lại tài sản của cải nhiều hơn số tài sản, vàng bạc bị cuốn trôi theo dòng thác thực hành bố thí, cúng dường trước đây. Và ông tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước.

Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí. Đó là hạt nảy mầm quả giác ngộ và giải thoát. Qua đó, ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng kính cẩn như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên với ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này.

Chúng ta không nghi ngại gì cả, phát tâm bố thí cúng dường là gởi tiền vào ngân hàng “Nhân quả” được bảo toàn nguyên vẹn lại được sinh lời, khi nào ta cần ngân hàng “nhân quả” này sẽ chi cấp cho ta sử dụng không để ta thiếu thốn.

Trở lại câu chuyện Thái tử Kỳ-đà và Cấp Cô Độc, khu vườn của Thái tử Kỳ-đà là nơi lý tưởng để xây dựng Tịnh xá, nhưng Thái tử Kỳ-đà giàu có đâu cần tiền, đâu cần bán đất, nên Thái tử nói thách cao như vậy để Cấp Cô Độc thối tâm, thối chí. Không ngờ Cấp Cô Độc đồng ý. Thái tử Kỳ-đà bàng hoàng sửng sốt khi thấy Cấp Cô Độc chở nhiều xe vàng đến lót gần kín đất khu vườn, làm cho Thái tử động lòng trắc ẩn, vui vẻ bán khu vườn, nhưng không nỡ nhận đủ tiền bán cả đất lẫn vườn cây, mà Thái tử chỉ nhận tiền đất còn rừng cây ông phát tâm cúng dường cho đức Phật. Đây là tịnh xá thứ hai sau khi Phật thành đạo, và thứ nhất là Trúc Lâm Tịnh Xá do vua Tần-bà-sa-la cúng dường tại thành Vương-xá.

Ngoài việc mua đất xây dựng Tịnh xá, Tu-đạt còn thường xuyên cúng dường tứ sự cho chư Tăng. Ông phát tâm cúng dường Tam Bảo không mệt mỏi, nhàm chán, ông còn luôn bố thí giúp đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng danh hiệu Cấp Cô Độc.

Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí cúng dường để chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người có niềm tin sâu vào Tam Bảo, được chứng quả bất thối chuyển, người đó dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt của mình. Cấp Cô Độc là người như vậy, cho nên từ ngày ấy cho đến bây giờ mọi người, mọi giới, mợi thành phần đẵng cấp trong xã hội ngưỡng mộ, đều quý kính Ngài.

Bố thí cúng dường là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày thêm sâu sắc, gần gũi, gắn bó với nhau hơn và sự giúp đỡ, sẻ chia cùng nhau là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ngồi lại bên nhau, dùng tình thương xây dựng cuộc đời.

Bố thí cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát để từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí cúng dường mà tâm ta được an lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng gắn bó yêu thương hơn.

Trong dân gian Việt Nam thường nói “Ăn thì hết, cho thì còn.” Câu nói này nghe như ngược đời, nhưng thực tế quả thực không sai, cái gì ta tiêu xài, hưởng thụ cho riêng mình thì không còn, cho nên nói “ăn thì hết.” Còn cái gì ta đem giúp người thì đó mới là cái để dành, cho nên nói: “cho thì còn” là vậy.

Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy đủ, giàu có như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài, còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2019(Xem: 12488)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
26/08/2019(Xem: 5469)
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật. Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường 2/Chư Pháp Vô Ngã 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
07/07/2019(Xem: 6636)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
07/07/2019(Xem: 5527)
Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng, giá trị cốt lõi của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay,hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướngtìm về sự thật, mộtgiải pháp cứu cánh, rốt ráo, an toànvì ‘hòa bình bền vững’, xã hội trật tự vàngày ngày an lành ... Hòa chungtrách nhiệm, bản hoài, thông điệp : ‘Chân lý chỉ có một’,[1]đồng nghĩa với ‘Sự lãnh đạo bằng chánh niệm’ qua cách tiếp cận của Phật giáo, mang vạn niềm vui đến với muôn loài. Thật vậy, Phật giáo với trọng trách mang ‘an vui lâu dài’, là nội dung cốt lõi của xã hội nhân loại, cũng là tiền đề cho một xã hội bền vững;trong đó mỗi cá thể cần củng cố,xây dựngnội tâmkiên cố dựa trên phương cách lãnh đạo bằng‘chánh niệm’, đểcùng nhìn lại, quán chiếu và cùng dẫn đến trách nhiệm sẻ chia …
29/06/2019(Xem: 7691)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 4174)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7818)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4746)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 9700)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 4278)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]