Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giá trị của An cư kiết hạ trong đời sống hiện đại

06/10/201007:23(Xem: 17050)
Giá trị của An cư kiết hạ trong đời sống hiện đại

Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma(q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”. Hay nói cách khác, khái niệm an cư cần được hiểu “An” là an tịnh nội tâm, “Cư” là kỳ hạn
ancu-xuhuecư trú tu tập, chuyển hóa tâm thức trong suốt thời gian nhất định nào đó.

Vì vậy, mùa An cư kiết hạ của chư Tăng, Ni thực chất chính là thời kỳ thuận lợi nhất trong việc thực thi đời sống hướng thượng, quyết định sự chuyển hóa tâm thức, là cơ sở thành tựu phạm hạnh giải thoát tối hậu.

Do có giá trị cao cả như thế, ngay từ thời Phật còn tại thế, Ngài đã chú trọng vấn đề này. Chính Đức Phật đã từng khiển trách nhóm Tỷ kheo sáu người và khuyến giáo rằng: “Này các thầy Tỷ kheo, phải an cư trong mùa mưa. Đây là hai thời điểm an cư. Thời điểm trước là ngày kế của ngày trăng tròn tháng Àsàlha, thời điểm sau là vào ngày sau ngày trăng tròn của tháng sau. Này các Tỷ kheo, trong ba tháng mùa mưa an cư không nên du hành. Vị nào đi ra ngoài, nếu không có lý do chính đáng thì phạm Dukkata”.

Rõ ràng, thời gian an cư có thể nói là thời gian quan trọng nhất trong năm của bất cứ hành giả nào hướng tâm giải thoát. Nó không chỉ có giá trị quyết định vấn đề thăng chứng tâm linh, phẩm hạnh trí tuệ của từng cá nhân đoàn thể Tăng già mà còn có tác động khai mở tâm thức, thiết lập và phát triển đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của giới Phật tử tại gia thuần tịnh.

Cho nên, ta chẳng ngạc nhiên gì, ngày nay đến thời điểm an cư, giới lãnh đạo Phật giáo đã chú trọng chỉ đạo thiết lập những trường hạ quy củ để chư Tăng, Ni tập trung an cư trong một môi trường thanh tịnh, thuận lợi cho việc hành trì tu tập. Giá trị việc thiết lập đạo tràng an cư không đơn giản là hành giả an cư phải sống tập trung để tránh mưa, sợ đi lại nhiều và dẫm đạp trên đất làm chết côn trùng, mà thật ra còn có ý nghĩa cao hơn là để Tăng, Ni có điều kiện thanh tịnh tam nghiệp, học hỏi giáo pháp, thăng tiến trong lộ trình hành trì giới định tuệ. Trong ý nghĩa đó, an cư được minh giải như một quá trình tự thân tu tập, tự thân hành trì, mục đích cuối cùng là tự thân giải thoát thành Phật mà bất cứ người nào hành trì giáo pháp Như Lai ước nguyện.

Các bản kinh A hàmNikàyatừng thuật lại, nhờ có sự tập trung An cư kiết hạ mà các hành giả trong thời gian này đã có sự thăng chứng vượt trội; kết quả là nhờ sống phạm hạnh mà thành tựu giới, nhờ thành tựu giới mà chứng đạt được định, nhờ chứng đạt định mà khai mở trí tuệ, nhờ có trí tuệ mà chứng đắc quả Thánh. Kinh Chánh pháp niệm xứđề cập đến sự nhiệt tâm tinh tấn của chư Tăng thật đáng tôn kính, ngoài việc đi vệ sinh, thì các hành giả an cư dành toàn bộ thời gian còn lại để ngồi kiết già, hành trì thiền định cho đến khi chứng đắc quả Thánh.

Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp. Các hành giả Tăng, Ni trẻ tuổi có cơ may học pháp từ các bậc trưởng thượng; và các bậc trưởng thượng có thuận duyên sách tấn giáo huấn đàn hậu học thăng tiến trưởng thành. Có như thế, sinh mệnh Tăng già không những trường tồn mà việc hoằng hóa độ sanh ngày một hưng thạnh, đem lại lợi ích cho quần sanh. Đúng như tinh thần Phật dạy theo kinh Tăng Chi: “Hội chúng nào có các Tỷ kheo sống không biếng nhác, từ bỏ các đọa lạc, đi đầu hạnh viễn ly, sống theo tinh thần tinh tấn để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, để chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ, hội chúng này sẽ làm lợi ích cho đa số, sẽ làm tăng trưởng lạc giải thoát”. Chính sự thành tựu của việc tu tập này, sẽ góp phần đem lại các chân giá trị hạnh phúc thiết thực cho tự thân mỗi hành giả tu tập giải thoát, kết nối sự hòa hợp thanh tịnh của cả một đoàn thể Tăng già, quyết định cho sự truyền đăng tục diệm, hưng thịnh đạo pháp.

Do đó, việc giới Phật tử tại gia nương theo các đạo tràng An cư kiết hạ của chư Tăng, Ni để hướng tâm tu tập giải thoát là điều tất nhiên. Chính Đức Phật từng tán thán: “Nơi nào có hội chúng xuất gia thành tựu pháp, thì nơi đó hội chúng tại gia được an lạc, hạnh phúc nhờ sự hướng dẫn thực tập hành pháp của hội chúng xuất gia”. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, giới Phật tử tại gia ngày nay có nhiều áp lực, lắm nỗi lo toan cần phải giải quyết trong một nền kinh tế thị trường khá biến động, thay đổi và đang ở trong thời kỳ suy thoái khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Việc các trường hạ cũng là nơi thiết lập đạo tràng cho hội chúng tại gia có điều kiện nghe pháp, hành trì pháp, thực tập đời sống hướng nội một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Kinh Tăng Chi IInói rằng: “Có 5 lợi ích cho người sống chung với người an cư có mục đích. Đó là: 1- Nghe điều chưa được nghe. 2- Làm cho thanh tịnh điều được nghe. 3- An trú chánh tín những gì đã được học. 4- Không cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng. 5- Có được các thiện tri thức đồng tu tập”.

Đọc các bản kinh A hàmhay Nikàya, truyện ký Phật giáo, chúng ta cũng thấy giới Phật tử tại gia thời Đức Phật, nhờ biết nương tựa chư Tăng tu hành mà thành tựu các pháp trong thời kỳ An cư kiết hạ hàng năm. Thậm chí các Phật tử ở vùng sâu đã liên kết với bà con quyến thuộc, các bộ tộc, những người cùng thôn xóm đến xin Thế Tôn thỉnh cầu một số chư Tăng về trú xứ của mình an cư để họ có cơ duyên thân cận thiện tri thức, nghe pháp và hành thiện, tạo phước điền. Tại đây, sự kết nối yêu thương được thiết lập, các giá trị đạo đức, nhân cách, trí tuệ của mọi người cũng được định hình nhờ sự tiếp nhận suối nguồn Chánh pháp. Mọi mâu thuẫn, những áp lực của công việc, những ham muốn sẽ giảm thiểu, thay vào đó là sự nảy mầm của các hạt giống thiện lành làm cho đời xanh tươi lên qua sự sự trải nghiệm thực hành các hạnh công đức Ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ mà người Phật tử thường làm như là một sự hộ trì Chánh pháp cao cả.

Ngày nay, các đạo tràng tịnh nghiệp chư Tăng, Ni an cư trong ba tháng hạ hàng năm, các đệ tử tại gia đã không ngừng thăng tiến trong việc tu tập hướng đến đời sống hướng thượng. Mô hình tu tập một ngày an lạc, tu Bát quan trai, niệm Phật, bái sám,… dưới sự hướng dẫn của chư Tăng, Ni đã đi trở thành nếp sống quen thuộc, là truyền thống sinh hoạt của người Phật tử trong mùa an cư. Hẳn nhiên, giới Phật tử cũng trở thành người đóng vai trò hộ trì, cung cấp “tứ sự” cần thiết cho chư Tăng, Ni và ủng hộ các việc công ích xã hội khác.

Và như thế, hội chúng xuất gia cùng hội chúng tại gia trong mùa an cư có cơ duyên thân cận, nối kết các thành phần trong xã hội. Người thầy nỗ lực tu tập và hoằng pháp; người trò tiếp nhận pháp và hành pháp trong khả năng, điều kiện có thể, góp sức cùng cộng đồng xây dựng đời sống hạnh phúc. Suy cho cùng, đây chính là mối liên hệ hữu cơ giữa hội chúng xuất gia và tại gia. Nó là cơ sở làm cho đạo pháp hưng thịnh, nước nhà an lạc như Phật dạy: “Tại trú xứ này, đệ tử xuất gia và tại gia sống hòa hợp, hoan hỷ, tu tập thiện pháp như nước hòa với sữa thì tại đó có sự an nhiên tự tại, thoải mái, có sự lợi ích an lạc”(Tăng Chi I).

Vậy là việc An cư kiết hạ của chư Tăng, Ni thực chất là sự an tịnh, tịnh hóa tâm thức không chỉ dành cho chư Tăng, Ni mà cho bất cứ ai hướng tâm tu tập. Chư Tăng, Ni ba tháng ở yên một chỗ, nỗ lực hành trì giới định tuệ trong tinh thần hòa hợp, thanh tịnh để thăng chứng đạo nghiệp, là cơ sở làm cho đạo pháp hưng thịnh, chúng sinh được an lạc. Phật tử tại gia nhờ nhân duyên này, mà chính tự thân của mỗi người có cơ duyên học pháp, khai mở trí tuệ, làm các việc lành, tạo sự nối kết yêu thương cho cộng đồng. Đây chính là giá trị cao nhất mà việc An cư kiết hạ đem lại. Thiết nghĩ, mọi giá trị khác của con người nếu có mặt, chúng cũng xoay quanh giá trị cơ bản này.

Vạn Hạnh, mùa An cư, tháng 6-2009

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 25327)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 13387)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 5104)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
16/09/2020(Xem: 5556)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6895)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 9330)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4604)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4617)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 13669)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8132)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]