Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diệu dụng của tàm quý

05/11/201200:08(Xem: 2658)
Diệu dụng của tàm quý
DIỆU DỤNG CỦA TÀM QÚY
Quảng Tánh

2gMột thời, Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, vườn ông Anàthapindika, gọi các Tỷ-kheo:

Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp đen. Thế nào là hai? Không tàm và không quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đen.

Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp trắng. Thế nào là hai? Tàm và quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp trắng.

Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai? Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.

(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Hình phạt)

SUY NGHIỆM:

Trong mỗi con người đều có đầy đủ những chất liệu của thiện ác lẫn lộn, đan xen. Trừ các bậc Thánh thuần thiện ra, hầu hết ai trong chúng ta cũng đều có nguy cơ gây tạo những nghiệp xấu ác. Nghiệp luôn dấy động và biểu hiện đa chiều trắng đen, thiện cùng bất thiện. Tùy theo sự nỗ lực tỉnh thức, thiết lập khả năng chánh niệm mà mỗi người có thể tự làm chủ và chuyển hóa nghiệp lực của chính mình. Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.

Tàm là một thiện tâm sở, chính là tâm xấu hổ, hổ thẹn với chính mình khi tạo tác ba nghiệp về thân, miệng, ý xấu ác. Trong cuộc sống đã không ít lần mình làm những việc chẳng tốt mà không ai biết, duy chỉ mình là người biết rõ nhất về mình mà thôi. Lẽ thường thì dù việc xấu ác đến mấy mà không ai biết hoặc chưa ai hay thì vô tư xem như mình trong sạch, vô tội. Nhưng với người biết tự hổ thẹn (tàm) thì luôn thao thức, xót xa, xấu hổ với điều đó. Tự mình hỗ thẹn và ăn năn chừa bỏ những việc xấu ác của chính mình là diệu dụng của tâm sở tàm.

Quý là một thiện tâm sở khác, tâm sợ hãi với những ác nghiệp đã làm. Một khi lỡ đã tạo nghiệp xấu ác rồi thì sợ hãi với việc đó. Nhờ sợ hãi nên về sau không dám làm nữa. Không chỉ sợ hãi, quý còn là tâm hổ thẹn, xấu hổ với người khác về những lầm lỗi của mình. Biết sợ hãi cái ác, biết xấu hổ với mọi người xung quanh sẽ giúp chúng ta phục thiện nhanh chóng, đoạn tuyệt với lỗi lầm.

Tàm quý có diệu dụng không thể nghĩ bàn như thế nên Thế Tôn mới gọi đó là hai pháp “che chở cho thế giới”. Nếu không có tàm quý thì thế gian này sẽ trở nên loạn lạc, thậm chí sẽ hỗn loạn, phi nhân tính như của thế giới súc sanh. Nhờ có tàm quý nên chúng ta ý thức rõ ràng về nhân tính, nhân cách mà xóa tan những dục vọng, hôn ám có thể che mờ tâm trí và dẫn đến những hành động xấu xa, đê hèn và ghê tởm nhất.

Trong bối cảnh suy đồi đạo đức nghiêm trọng như hiện nay thì tàm quý tức là tâm hổ thẹn và sợ hãi với cái ác cần được phát huy hơn nữa. Tàm quý vốn có sẵn trong tâm của mình mà vô tàm vô quý cũng có sẵn trong tâm của mình. Tùy theo sự dụng tâm mà thành pháp đen hay trắng, ác hay thiện. Cho nên, hãy xem tàm và quý là những đồ trang sức quý báu luôn khoác lên mình để hoàn thiện tự thân và góp phần “che chở cho thế giới” luôn được bình an.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/02/2011(Xem: 6921)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
01/02/2011(Xem: 3679)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, nhau tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập, đó là Tu-đà-hoàn (srota-āpanna) còn gọi là nghịch lưu quả, Tư-đà-hàm (sakradāgamin) còn gọi là Nhất lai quả, A-na-hàm (anāgāmin) còn gọi là Bất hoàn quà và, A-la-hán (arhat) tức là A-la-hán quả.
01/02/2011(Xem: 4450)
Đây là bốn phương pháp thu phục, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát.
25/01/2011(Xem: 3754)
Sự hiện hữu hay hủy diệt của một thực tại giả hợp, chúng luôn luôn tùy thuộc vào nhân và duyên có được, từ nơi định luật vô thường khởi-diệt của nhân sinh và vũ trụ, đã nói lên tính dung thông vô ngại của nguyên lý Duyên khởi tính không các pháp đối với cuộc sống.
25/01/2011(Xem: 3782)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình, trong muôn nghìn pháp môn mà đức Đạo sư đã để lại.
22/01/2011(Xem: 5321)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
14/01/2011(Xem: 3511)
Chư Chánh Đẳng Giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác đều có nguyện lực và đều có ba giai đoạn: Nguyện trong tâm (ý), nguyện thành lời (khẩu) và nguyện bằng hành động (thân) ba-la-mật. Như đức Phật Sakyā Gotama đã phát nguyện ở trong tâm suốt 7 A-tăng-kỳ, nguyện thành lời suốt 9 A-tăng-kỳ, và nguyện bằng hành động ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp(2). Như vậy là đức Phật Sakyā Gotama phải thực hành ba-la-mật trải qua 24 vị Phật tổ, kể từ Phật Dīpaṅkāra (Nhiên Đăng) cho đến Phật Kassapa (Ca Diếp).“Nguyện lực” hay “quyết định lực” là 01 trong 10 ba-la-mật (pāramī) (1) theo kinh điển truyền thống. Nó là năng lực của ý chí tiếp sức cho tư tác (cetanā) hoàn thành tâm nguyện của người học Phật và tu Phật.
31/12/2010(Xem: 3342)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
28/12/2010(Xem: 2776)
Phật tử Chơn Từ Bi hỏi: Con nghe nói đạo Phật là chánh tín nhân quả, lấy tứ diệu đế làm nền tảng là minh triết đạo Phật? Tại sao bây giờ con thấy trong các chùa, kể cả chùa Ban tri sự Phật giáo Tỉnh và các Huyện vẫn cúng sao giải hạn một cách công khai trong những ngày đầu năm và hàng tháng? Như vậy có trái với lời Phật dạy hay không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567