Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Qua sông rồi, chớ đội bè

06/10/201421:13(Xem: 5026)
Qua sông rồi, chớ đội bè
 
 

chiec be











Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn. 

 

Khi thực tiễn thay đổi, các hệ thống phương pháp cũ trở thành không còn thích hợp nữa. Vai trò chuyên chở của chúng đã mất. Tuy nhiên, do quán tính của nhận thức, con người ta vẫn thường bám níu vào những điều cũ kỹ. Trong lĩnh vực quan hệ giữa người với người, sự biết ơn, nhớ ơn là điều cần được duy trì, cổ vũ. Trong lĩnh vực nhận thức thì khác hơn, giống như đứa trẻ lên mười không thể mặc cái áo cho trẻ lên ba, những nhận thức, những hệ thống không phù hợp với thực tại cần phải được bỏ đi. 

 

Điều này được nhắc đi nhắc lại vô số lần trong các văn bản Phật giáo. Con người cần phải hủy bỏ các quán tính, nhận thức, cần phải phá chấp. Đức Phật giảng thích (Kinh Ví dụ con rắn, Trung bộ 1 – trang 305): Này các Ty-kheo ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Người đó suy nghĩ: “Đây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm vàhãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cây cầu bắc qua từ bờ này tới bờ kia. Nay ta thu góp cỏ, cây, nhành, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này nỗ lực vượt qua đến bờ bên kia an toàn”. 

 

Khi qua bờ bên kia rồi, người ấy suy nghĩ: “chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ nó mà ta qua sông được. Bây giờ ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai và đi đến nơi nào ta muốn”. Này các Tỳ-kheo các ông nghĩ thế nào? Người ấy làm như vậy có đúng với chức năng của chiếc bè hay không?

– Thưa không.
– Người đó phải làm thế nào cho đúng với chức năng của chiếc bè? Này các Tỳ-kheo, người ấy sau khi sang được bờ bên kia nên suy nghĩ hợp lý như sau: “chiếc bè này có lợi ích cho ta, nhờ nó mà ta vượt qua được bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên bờ đất khô hay nhận chìm xuống nước và đi đến nơi nào ta muốn”.
(Kinh Ví dụ con rắn)

Nếu đội bè mà đi thì không thấy được bầu trời cao rộng. Nhà sử học Tư Mã Thiên, trong tâm sự buồn, cũng ví mình như người đội chậu. Nếu đội chậu không thấy được mặt trời thì khi đội bè ắt tệ hơn. Con người cần phải tránh tình trạng tự nguyện đội bè, phải làm chấm dứt các ám ảnh suy luận để có thể nhìn rõ thực tiễn và không bị giới hạn trong phương pháp giải quyết. Vì thế, cần có:
Quy tắc bỏ bè: Các kiến thức, kinh nghiệm, lý thuyết, truyền thống, đạo đức… chỉ nên sử dụng theo nguyên lý chọn lựa: điều gì làm tăng trưởng điều xấu, giảm thiểu điều tốt thì phải bỏ đi.

Quy tắc trên được phát biểu theo dạng phủ định. Nếu phát biểu theo dạng khẳng định thì quy tắc này phát biểu như sau: Có thể hủy bỏ các quy trình, hệ thống cũ, có thể sử dụng các giải pháp không truyền thống để giải quyết vấn đề nhằm tạo ra kết quả đúng tốt. Quy tắc này nhằm huỷ bỏ các sự hạn chế của các thủ tục quy trình hiện hành nếu có cách làm khác đúng tốt hơn. Nó nhằm tránh các loại quán tính về nhận thức. 

 

Trong Phương pháp luận sáng tạo TRIZ, có một số nguyên tắc thể hiện điều này. Chẳng hạn nguyên tắc phản đối xứng: chuyển đối tượng có hình dạng đối xứng thành không đối xứng, những đối tượng không đối xứng thì làm tăng độ không đối xứng. Một nguyên tắc khác là nguyên tắc linh động: thay đổi các đặc trưng của đối tượng hay môi trường bên ngoài, phân chia đối tượng thành nhiều phần có khả năng dịch chuyển, làm cho các đối tượng bất động có thể di chuyển được. 

 

Một nguyên tắc tương tự là nguyên tắc chuyển sang chiều khác: những khó khăn do chuyển động (hay sắp xếp) đối tượng theo theo đường (một chiều) có thể sẽ không còn nếu cho đối tượng di chuyển trong một mặt phẳng hay trong không gian… quy tắc này cần được áp dụng cho người lớn tuổi, những người có quá nhiều kinh nghiệm. Các câu nói thông thường là: hồi xưa thì khác, chưa bao giờ thấy ai làm như vậy v.v… Chính là thể hiện của trạng thái quán tính nhận thức, quy tắc bỏ bè trả lời cho những lập luận đó.

Một trong những cách để xoá bỏ quán tính cũ là phương pháp tìm kiếm những điều bất thường (nguồn Peak Learning, Ronald Gross): những điều sai khác đặc biệt mà ta không hiểu được. Theo Phật học, các diễn biến của thực tại bao giờ cũng ra ngoài các suy nghĩ dự đoán và có vô số điều mà ta chưa bao giờ biết. Vì thế, đối với Phật học, mọi cái đang diễn ra đều là bất thường. Một số các kỹ năng để thấy được điều bất thường đã được phát biểu (theo Schank, nguồn: Peak Learning):

- Thấy lạ trông quen: món ăn Việt khác món ăn Thái chỗ nào? Chương trình ti vi đó làm tôi thích bằng cách nào?

- Đưa ra biến thể của sự việc: Điều gì xảy ra nếu món Thái nấu theo kiểu Việt? Tôi thích điều gì trong chương trình ti vi đó?

- Để qua một bên các giải thích quen thuộc: Tìm một cách giải thích khác với suy luận theo thói quen hay theo số đông vì các suy luận đó có thể sai.

- Để qua một bên các quy tắc quen thuộc: Bằng cách này ta có cơ hội để xem xét vấn đề theo con mắt mới mẻ hơn

- Đóng vai người khác: Tưởng tượng mình là người Thái (mặc dù mình là người Việt), tưởng tượng mình là người bị hại (mặc dù mình không là người bị hại), tưởng tượng mình là thầy giáo (mặc dù không phải là thầy giáo) có nhiệm vụ giải thích cho học sinh (mặc dù người nghe giải thích không phải là học sinh).

Trong hệ thống Kaizen của Nhật Bản quy tắc bỏ bè được áp dụng trong sự thay đổi các thủ tục, quy trình cũ, loại bỏ các thủ tục, quy trình không cần thiết mà vẫn được đảm bảo kết quả tốt và được thực hiện bởi các nhân viên trực tiếp làm việc. Quá trình cải tiến này có thể gọi là quá trình làm tắc có chủ đích, làm tắt một cách có trách nhiệm. Như thế, người lao động được phân quyền cải tiến trong khu vực làm việc của họ. 
Điều này trái với hệ thống quản trị theo kiểu cơ giới, trong đó người lao động chỉ được làm theo các thủ tục được chỉ định, nếu vi phạm sẽ bị khiển trách. 

 

Đối với quan điểm của những người thực hiện Kaizen, những cải tiến (nhỏ và liên tục) chính là sự phá vỡ các thủ tục quy trình cũ. Do đó, Kaizen được xem là “sự nổi loạn chống lại quá khứ”. Với cách quản trị cơ giới, loại “nổi loạn” này không được chấp nhận. Người quản lý sẽ bảo rằng: “anh hãy lo làm theo quy trình, đừng cải lý, quy trình là cái bè mà anh cần phải đội, thay đổi là nhiệm vụ của cấp trên”. Cải tiến trong hệ thống Kaizen cũng được xem như là “lời tự thú”. Đó là sự tự thú rằng các quy trình cũ còn có khiếm khuyết, thậm chí là sai lầm, vì có khiếm khuyết, sai lầm mới cần phải cải tiến. Tuy nhiên, thà rằng ta chịu ấy náy mà thừa nhận sai lầm rồi cải tiến còn hơn là chịu đội cái bè khiếm khuyết ấy và làm giảm sức cạnh tranh của mình trong thời đại cạnh tranh khốc liệt này.


Quan điểm của Kaizen về “nổi loạn” và “tự thú” bằng các cải tiến đã được trình bày trong một đoạn thuyết giảng khác của đức Phật (VII, Phẩm lớn, 65, Tăng chi bộ kinh 1, trang 338). Quy tắc bỏ bè được trình bày như sau:

"Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kho tàng kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì đó là bậc thầy của mình. 

Này các Kàlàmà, khi nào các người tự mình biết rõ như sau: “các hành vi này là sai xấu, các hành vi này là có tội, các hành vi này bị người có trí chỉ trích, các hành vi này nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau”, thì này các Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng… vị nào rèn luyện suy nghĩ xa lìa tham lam, tức giận, ngu muội… với suy nghĩ không oán hận như vậy, không tức giận như vậy, không dơ bẩn ô nhiễm như vậy, trong sạch như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được một trong bốn suy nghĩ an ủi như sau 

 

– Nếu có đời sau, nếu có kết quả biến dị của các động lực nội sinh đúng tốt, sai xấu, thì sau khi thân thể tan rả, mạng sống kết thúc, ta sẽ sanh vào nơi đúng tốt, cõi trời, cõi đời này. Đấy là an ủi thứ nhất. 

 

– Nếu không có đời sau, không có kết quả biến dị của các động lực nội sinh đúng tốt, sai xấu, thì ở đây, ngay trong hiện tại, ta cũng được sống với suy nghĩ không oán hận, không phiền não, được yên ổn sung sướng. Đấy là an ủi thứ hai. 

 

– Nếu việc sai xấu ta có làm, nhưng ta không có suy nghĩ ác với ai cả, và nếu ta không làm điều ác thì làm sao ta có thể cảm nhận khổ đau được. Đấy là an ủi thứ ba. 

 

– Nếu việc sai xấu ta không có làm, thì về cả hai phương diện cố ý hay vô ý, ta quan sát thấy ta hoàn toàn trong sạch. Đấy là an ủi thứ tư.”

 

(VII, Phẩm lớn, 65, Tăng chi bộ kinh 1, tr. 338).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/08/2010(Xem: 5588)
"Niệm Phật, niệm Pháp niệm tăng, nhằm tự nhắc nhở mình, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, tâm luân hướng thượng. Khi nhớ nghĩ đến ba điều cao thượng trên, các tâm lý bất thiện như tham, sân, si không có cơ hội phát sinh,các ý niệm thuần thiện sanh khởi,hiện tại sống an lành, chân chánh." (Kinh Trung Bộ).
28/08/2010(Xem: 4926)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
27/08/2010(Xem: 9393)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
24/07/2010(Xem: 3536)
Khổ đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện tượng.
22/07/2010(Xem: 12089)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
11/07/2010(Xem: 9909)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
02/07/2010(Xem: 4812)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện. Tôi có mặt ở đây là nhờ cha mẹ tôi đã lấy nhau, nhờ gia đình nuôi dưỡng
01/07/2010(Xem: 5224)
Vô thường, phụ thuộc vào sự biến đổi, là tính chất của các pháp hữu vi. Hãy tinh tấn”. Đó chính là lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật Cồ-đàm đối với hàng đệ tử của Ngài. Và khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, Trời Đế Thích than rằng:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567