Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chết Và Tái Sinh (sách)

09/11/201018:11(Xem: 18136)
Chết Và Tái Sinh (sách)
chet va tai sanh


CHẾT VÀ TÁI SINH
Soạn dịch: Thích Nguyên Tạng
Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu




HT Bao Lac
Lời giới thiệu
của HT Thích Bảo Lạc





Sách "Chết và Tái Sanh" hội đủ nhân duyên dược tái bản do nhu cầu độc giả gia tăng tại Úc, dựa hai điểm chính sau:

Thứ nhất, ấn bản lần đầu tiên, 1000 cuốn vào tháng 10 năm 2000, đã phân phối rộng rãi nhiều nơi tại Úc và Việt Nam. Sau hơn 2 tháng, vào cuối tháng 12, sách đã hết sạch, có nhiều người muốn đọc mà không tìm thấy sách nữa.

Thứ hai, sách đã được đài phát thanh SBS (Syndey) trang trọng giới thiệu trong chương trình toàn quốc vào sáng ngày 31 tháng 12 năm 2000, sau đó có rất nhiều thính giả hoặc trực tiếp hoặc bằng điện thoại hỏi thỉnh sách.

Phần soạn dịch từ các tài liệu tiếng Anh qua ngòi bút lưu lợi của Đại Đức Thích Nguyên Tạng, người đang chăm sóc trang nhà điện tử của Tu Viện Quảng Đức, Melbourne (http://www.quangduc.com), thực hiện gởi đến quý độc giả như món quà Xuân Di Lặc năm 2001 này. Ngoài ra Đại Đức còn chuyên trách biên khảo về Phật Giáo quốc tế, với các bài viết quen thuộc về đất nước, nhân vật và sự kiện xảy ra đó đây trên khắp thế giới, được đăng trên các tờ báo Phật giáo Việt Nam ở Việt Nam và Hải Ngoại như Pháp Bảo (Uc), Pháp Âm (Na-Uy), Giao Điểm, Hoa Sen, Phật Học (Hoa Kỳ), Tạp chí Phật Giáo, Nguyệt san Giác Ngộ (Việt Nam). Riêng số lượng độc giả vào xem mạng Internet của Tu Viện Quảng Đức ngày càng khá đông với số lượng ghi nhận của hệ thống automatic-counter là có trên 3000 người mỗi tháng.

Qua hai yếu tố văn phong trong sáng và sự làm việc chuyên cần của bút giả, tôi ân cần giới thiệu đến độc giả tác phẩm nhỏ này của Đại Đức Thích Nguyên Tạng, do Phật tử Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne và Chùa Pháp Bảo, Sydney hùn phước đóng góp tịnh tài ấn tống, để tác phẩm sớm được phổ biến sâu rộng đến độc giả.

Sydney ngày 18/01/2001

Thượng Tọa Thích Bảo Lạc



 

16-TT-NguyenTang


LỜI NGỎ

(nhân kỳ tái bản lần năm 2007)

 

 

 

Trong tuần lễ vừa qua tại thành phố Melbourne này đã trải qua một cơn kinh hoàng về vụ nổ súng bắn chết người, sự kiện đau đớn này xảy ra khoảng 8 giờ 30 sáng thứ hai, 18-6-2007, ngay trên góc đường William và Flinders, một loạt đạn nổ vào giờ cao điểm buổi sáng đã biến trung tâm thương mại thành phố Melbourne xinh đẹp thành quang cảnh của một tấn thảm kịch đổ máu. Luật sư Brendan Keilar, 43 tuổi đã bị bắn gục khi ông can đảm tìm cách ngăn cản một tay súng Hudson đang hành hung cô Kara Douglas, 24 tuổi, người đang hành nghề người mẫu và cố vấn du lịch. Cái chết thương tâm nhưng đầy lòng hy sinh cam đảm của luật sư Keilar, ra tay cứu một người qua đường mà ông không hề quen biết, đã làm bùng lên một làn sóng tranh cãi trong quần chúng trên các hệ thống trực thoại truyền thanh, truyền hình. Phần lớn những người góp ý đều tán đồng việc ra tay cứu người lâm nạn dù phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của mình, là điều đáng ngưỡng phục và là điều đáng làm.

 

 Ghi lại nơi đây đôi dòng về cái chết của cố Luật sư Keilar, để tưởng niệm một người con dân Melbourne, một người hùng của thời hiện đại. Ông đã ra đi vĩnh viễn bỏ lại phía sau mình một vợ và ba con nhỏ dại cùng với một sự nghiệp thành công rực rỡ ở phía trước. Cái chết của ông đã gây xúc động cho hàng vạn người trên xứ sở hiền hòa này, những người chưa từng quen biết ông. Đối với người đệ tử Phật, thì cái chết của Keilar thêm một lần nữa khẳng định rằng trên cõi đời này không cái gì chắc thật cả, tất cả đều mỏng manh và huyền ảo như giấc chiêm bao.

 

 “Ngày nay đã qua, mạng sống giảm dần, như cá ít nước, nào có vui gì, đại chúng nên tinh tấn tu tập, như cứu lửa đang cháy trên đầu, nhớ nghĩ đến vô thường, mà cẩn thận chớ có buông lung”. (Thị nhật dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc, đại chúng đương cần tinh tấn, như cứu đầu nhiên, đản niệm vô thường, thận vật phóng dật). Đây là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở cho hàng đệ tử Phật trong thời công phu buổi chiều về mạng sống của con người trong cõi đời mong manh này. Bình thường chúng ta ít để ý đến những lời dạy đơn giản này, chúng ta chỉ ý thức được khi cái chết vào tận trong nhà của mình. Chúng ta sợ hãi và đớn đau khi người thân của mình qua đời, nhưng mấy ai biết chuẩn bị trước khi cái chết đến với chúng ta? Ai cũng nghĩ rằng mình sẽ còn sống lâu lắm trên đời này, nên từ từ mà chuẩn bị, vội vã gì.

 

 Điều này lại được Đức Phật cảnh báo qua một ví dụ nhỏ, Ngài hỏi các đệ tử: cái mạng sống của con người ở trong mấy giờ? Một thầy tỳ kheo đáp: nó ở chỉ một ngày. Phật bảo: con chưa biết đạo! Lại hỏi: mạng người ở trong mấy giờ? Một vị khác đáp: ở trong một bữa  ăn cơm. Phật quở: con cũng chưa biết đạo! Lại hỏi: mạng người ở trong mấy giờ? Một vị tỳ kheo khác bạch rằng: nó chỉ ở trong một hơi thở. Đức Phật khen: con đã biết đạo rồi. Quả thật vậy, mạng sống con người chỉ ở trong một hơi thở. Tổ Quy Sơn Linh Hựu cũng dạy: “Vô thường già chết, không hẹn cùng người, sớm còn tối mất, bỗng chốc đã qua đời khác, cũng như sương mùa xuân, móc buổi sớm, chợt có liền không, cây bên bờ, dây trong giếng nào được bền lâu . . .”. “Vô thường lão bệnh, bất dữ nhơn kỳ, triêu tồn tịch vong, sát na dị thế, thí như xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô, ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu”.

 

 Trong Kinh Pháp Hoa Đức Phật cũng tuyên bố: “Tam giới bất an, do như hỏa trạch” tức là ba cõi không an, giống như ở trong nhà lửa. Lửa ở đây chính là lửa vô minh, lửa tham lam, lửa sân hận, lửa si mê, lửa điên đảo, lửa vọng tưởng…nếu hàng đệ tử Phật không biết tu tập, các thứ lửa ấy ngày đêm sẽ  thiêu đốt, hủy diệt hạt giống bồ đề tâm để rồi phải uổng công vô ích vào ra ba cõi sáu đường, vẫn còn bị chi phối trong vòng sinh tử luân hồi.

 

 Ngày nay, chúng ta có phước, có duyên gặp được Phật Pháp, nên cố gắng dành thời gian còn lại trong đời mình để tu tập, để sớm thoát cái vòng lẩn quẩn sinh tử khổ đau. Phật dạy: “siêng năng, tinh tấn là đường dẫn đến Niết Bàn. Lười biếng, giải đãi và trì hoãn là đường đưa về sanh tử luân hồi”. Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, mới thấy đó thì liền mất đó, mọi thứ trên đời này đều giả tạm, không có cái gì chắc thật và trường tồn mãi mãi, chỉ có phước đức và nghiệp lực sẽ tồn tại với ta trong hiện tại và ngay cả sau khi chúng ta rời khỏi trần gian này, chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào tiến trình giải thoát, giác ngộ hay là đọa lạc, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Mỗi người phải ý thức rằng “ nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn’’, thân người khó được, Phật pháp khó nghe”, và một khi đã mất thân người này rồi, biết bao giờ mới tìm lại được nữa, nên người xưa từng nói: “Nhất thất nhơn thân, vạn kiếp bất phục” là như vậy đó. Do vậy, chúng ta hãy cố gắng, siêng năng thực hiện mọi hạnh lành ngay khi có thể để mang lại lợi ích thiết thực cho mình và cho người trong đời sống tâm linh này.  

 

 Tập sách nhỏ mà quý vị đang cầm trên tay đã được tái bản lần thứ 7, lần ấn hành này nhờ vào sự phát tâm của hai gia đình đạo hữu Ngô Tùng Bảo và đạo hữu Nguyên Lượng Nguyễn Văn Độ, với mục đích tri ơn và báo ơn song thân phụ mẫu trong mùa Vu Lan Báo Hiếu, và cũng nhằm để góp phần lăn chuyển bánh xe Pháp đến với chúng sanh trên thế gian này.

 

 Xin chắp tay nguyện cầu cho Chánh Pháp được trường tồn, chúng sanh được an lạc. Và cũng xin nguyện cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ, Cha Mẹ nhiều đời của chúng ta sớm tái sinh về cõi giới an lành.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne, mùa Báo Hiếu 2007

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2010(Xem: 10343)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời...
11/12/2010(Xem: 10987)
Trong cuộc sống hiện tại, là một con người, ai không phải suy nghĩ. Người có cuộc sống đơn giản cũng suy nghĩ về ăn uống, sinh hoạt, nghĩ về gia đình...
17/11/2010(Xem: 8790)
Còn định nghiệp là sao? Ðịnh nghiệp mới xem bề ngoài cũng có phần tương tự như định mệnh. Ðã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không quả, hay có quả mà không nhân. Ðó là một quy luật đương nhiên. Tuy nhiên luật nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Do vậy dù ở trường hợp thụ quả báo có lúc khắt khe khó cưỡng lại được, nhưng tự bản chất đã do tự con người thì nó không phải là cái gì cứng rắn bất di dịch; trái lại nó vẫn là pháp vô thường chuyển biến và chuyển biến theo ý chí mạnh hay yếu, tốt hay xấu của con người.
20/10/2010(Xem: 7417)
Hôm nay ngày Rằm tháng 7, ngày lễ Vu Lan, ngày Tự Tứ của chư Tăng Kiết hạ sau 3 tháng an cư tu tập, cũng gọi là ngày Xá Tội Vong Nhân, ngày “Báo Hiếu của mọi người con Phật”. Ngày Vu Lan đến, người ly hương cũng như kẻ còn nơi quê Cha đất Tổ đều có lòng tưởng nhớ đến Tổ Tiên, Cha Mẹ, tháng 7 là tháng nhớ ơn, là mùa Báo Hiếu, là nguồn đạo hạnh…
18/10/2010(Xem: 16411)
Đây không phải là một sáng tác. Tài liệu nhỏ này chỉ trích soạn những lời hay ý đẹp trong các bài giảng của chư Tôn Đức, sách báo của Phật giáo đã xuất bản từ trước đến nay, hệ thống lại thành một bài giảng chuyên đề. Công việc của chúng tôi là lượm lặt những bông hoa thơm đẹp để kết thành một tràng hoa đẹp. Phổ biến tập tài liệu này, ước mong nó sẽ cung cấp một vài kiến thức cần thiết cho quý vị “Tân Giảng Sư” và cũng là tài liệu nghiên cứu cho những người học Phật sơ cơ.
18/10/2010(Xem: 12567)
Đây không phải là một sáng tác. Tài liệu nhỏ này chỉ trích soạn những lời hay ý đẹp trong các bài giảng của chư Tôn Đức, sách báo của Phật giáo đã xuất bản từ trước đến nay, hệ thống lại thành một bài giảng chuyên đề. Công việc của chúng tôi là lượm lặt những bông hoa thơm đẹp để kết thành một tràng hoa đẹp.
11/10/2010(Xem: 9173)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết. Nhưng vì sự cách trở địa dư giữa Hoa-Ấn, sử liệu Phật giáo mà họ có chỉ là căn cứ vào sự truyền khẩu của Phạn tăng. Mặc dù người Trung Hoa đã xây dựng được lịch sử truyền thừa của Phật giáo một cách mạch lạc, nhưng không thoát khỏi thiên kiến bởi tính chất phái biệt của từng Phạn tăng. Thái độ khinh miệt khuynh hướng được mệnh danh Tiểu thừa cho ta thấy rõ điều này.
10/09/2010(Xem: 50613)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
28/08/2010(Xem: 52039)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51475)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567