Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Stress và giá trị của tĩnh lặng

01/04/201317:19(Xem: 5334)
Stress và giá trị của tĩnh lặng

 

STRESS VÀ GIÁ TRỊ CỦA TĨNH LẶNG

MAHATHERA PIYADASSI

HUYỀN CƯƠNG dịch

* Căng thẳng tâm lý (stress) mang tính xã hội là sản phẩm lối sống hiện tại.

Thế giới ngày nay không còn là thế giới của nửa thế kỷ đã qua. Những quan niệm về tốt - xấu đang nhanh chóng đổi thay, những ứng xử tinh thần đang trên đà chuyển biến và quan niệm chung về cuộc sống của con người cũng khác trước nhiều.

Chúng ta đang sống trong thời đại của sự ồ ạt và mau lẹ, sức ép có mặt ở khắp mọi nơi. Nếu bạn đứng một góc phố đông đúc và quan sát lần lượt khuôn mặt từng người đang cuống cuồng, hấp tấp qua lại, bạn sẽ nhận thấy hầu hết họ đều có vẻ bồn chồn; họ mang theo mình một không khí quá căng thẳng về mặt tâm lý (stress). Phần lớn họ là những bức tranh của sự vội vã và lo âu. Rất hiếm khi bạn thấy trên các khuôn mặt này một hình ảnh êm ả, thoải mái và thảnh thơi. Cuộc sống hiện đại là như thế đó.

Thế giới của ngày hôm nay mang đặc trưng của sự dồn đẩy quá đáng, dẫn đến những quyết định chớp nhoáng và những hành động thiếu thận trọng. Một số người la hét trong khi họ có thể nói với giọng bình thường, những người khác thì cất cao giọng một cách kích động, nói từng đợt dài, để rồi kết thúc câu chuyện hầu như kiệt sức. Theo ý kiến của các nhà tâm lý học trên thế giới thì bất kỳ loại kích động nào cũng đều gây ra căng thẳng tâm lý, và sự quá căng thẳng tâm lý sẽ làm tăng tốc các quá trình trong cơ thể. Không hiếm trường hợp một người đang lái xe bị kích động đã nhìn đèn giao thông màu vàng thành màu xanh. Một người đang sốt ruột nhìn một sự việc không quan trọng cũng trở thành như là một cơn khủng hoảng hoặc một mối đe dọa. Kết quả là con người luôn luôn lo âu và đau khổ.

Một điểm nổi bật khác của thế giới hiện đại là sự huyên náo của nó. Người ta thường nói rằng: "Âm nhạc làm say lòng người"; nhưng đối với nhiều người ngày nay, âm nhạc sẽ không đủ gây khoái cảm nếu nó không sôi động. Đối với họ, âm nhạc phải tạo ra những tiếng động inh ỏi hơn, ầm ỹ hơn. Những người sống trong các thành phố lớn không có thì giờ để nghĩ về sự huyên náo, bởi vì họ đã tập quen và thích nghi với nó. Sự náo động, sự quá căng thẳng tâm lý và sự quá gắng sức này sẽ gây nhiều tổn thương và bệnh tật - các bệnh tim mạch, bệnh ung thư, bệnh viêm loét, bệnh căng thẳng thần kinh, suy kiệt tiềm năng và rối loạn cảm xúc - đều là sản phẩm của cuộc sống hiện đại.

Tình trạng suy nhược thần kinh của chúng ta đang gia tăng theo đà tăng tốc của cuộc sống. Cuối ngày làm việc, người ta thường trở về nhà với trạng thái thần kinh đầy bực bội. Hậu quả là sự tập trung chú ý của họ bị suy yếu, hiệu suất của tâm trí và của thể xác đều giảm. Con người trở nên dễ bị kích động, hay bới móc và dể lao vào cãi lộn. Dần dà anh ta sẽ có những kinh nghiệm nội tâm bệnh hoạn, và trở nên nhức nhối, đau đớn và khổ sở vì huyết áp cao và mất ngủ. Những triệu chứng suy nhược thần kinh đó chỉ ra rằng tâm trí và thể xác của con người hiện đại cần phải được nghĩ ngơi - một sự nghĩ ngơi chất lượng cao.

Chúng ta hãy luôn nhớ rằng một chúc tạm lánh, một cách rút tâm trí ra khỏi nỗi bận rộn của cuộc đời, là điều cần thiết để vệ sinh tinh thần. Vào bất kỳ lúc nào bạn có cơ hội, bạn hãy thử rời xa thành phố và đắm mình trong sự suy tư lặng lẽ, mà người ta thường gọi nó là yoga, là sự tập trung suy nghĩ, hoặc là thiền định. Bạn hãy tập quan sát sự yên lặng. Sự yên lặng rất có ý nghĩa đối với chúng ta. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ những ai ầm ĩ, lắm điều, nhiều việc mới là người có quyền lực. Yên lặng là vàng, và chúng ta chỉ nên nói nếu như chúng ta có thể làm tốt hơn sự yên lặng. Năng lực sáng tạo vĩ đại nhất bắt nguồn từ trong yên lặng. Quan sát sự yên lặng là điều hết sức quan trọng. Chúng ta làm việc đó trong lúc thiền định của chúng ta. Bạn hãy lắng nghe những lời sau đây của Đức Phật: "Này các đệ tử, chỉ có hai điều nên làm khi các ông tụ họp với nhau, đó là: "im lặng như chánh pháp nói năng như chánh pháp".

* Giá trị của vắng lặng

Những người đã quá quen với sự náo động nói rằng họ cảm thấy lẽ loi và lúng túng nếu như họ không nói. Nhưng nếu chúng ta tập cho mình một kỹ xảo rèn luyện sự yên lặng, chúng ta sẽ học được nó.

Hãy bước đi một cách điềm tĩnh giữa nơi huyên náo và hối hả, và đinh ninh rằng có một trạng thái êm đềm trong sự yên lặng. Chúng ta cần phải dành thời giờ nhàn rỗi để rút vào chỗ riêng tìm kiếm sự yên lặng. Chúng ta phải, ngay bây giờ và sau này nữa, thoát ra khỏi sự chuyển động, để còn lại là trạng thái im lìm. Đó chính là hình thái êm đềm của sự sống. Chỉ mình ta với ta thôi, ta sẽ kinh nghiệm được giá trị của sự suy tư lặng lẽ, ta làm một cuộc du hành vào bên trong. Khi ta lui về với sự yên lặng, ta hoàn toàn một mình thấy được chính ta như thật ta là, và rồi ta có thể học được cách vượt qua những nhược điểm và những giới hạn trong sự trãi nghiệm bình thường.

Thời gian dành để một mình suy tư trong vắng lặng không hề lãng phí đâu; nó gián tiếp củng cố tính cách con người. Thật là bổ ích cho công việc hàng ngày và sự tiến bộ của chúng ta, nếu như chúng ta có thể tìm được thời gian để dứt mình ra khỏi nếp sống thường lệ và dành một hoặc hai ngày cho việc suy tư lặng lẽ. Đây chắc chắn không phải là trốn chạy hoặc lười nhác, mà là cách tốt nhất để củng cố tâm trí chúng ta. Đây là quá trình nội tâm rất có ích; chính nhờ việc khảo sát ý nghĩ và cảm giác của mình mà chúng ta có thể dò tìm vào ý nghĩa bên trong của các sự vật và phát hiện những sức mạnh bên trong của chúng.

Con người hiện đại rất khát khao sự vắng lặng. Một lát vắng lặng mỗi ngày, một lúc ẩn lánh ngắn ngủi, một chốc tách lìa khỏi "đám đông điên loạn", là hết sức cần thiết để lấy lại được thăng bằng cho tâm trí vốn đã bị rối bời bởi dòng chảy ồ ạt và mau lẹ, bởi những tiếng động ầm ầm và hỗn loạn, rền vang và chát chúa của lối sống hiện đại. Chính là ở trong và thông qua sự vắng lặng mà tâm trí con ngừơi có thêm sức mạnh và quyền lực.

Con người hiện đại mải cầu tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình thay vì kiếm nó ngay bên trong, vì vậy anh ta đã đặt thế giới bên ngoài dưới sự thống trị của anh ta. Dường như khoa học và công nghệ hứa hẹn rằng chúng có thể biến thế giới này thành thiên đàng. Ngày nay có những công trình đang được tiến hành theo hướng cải tạo thế giới bên ngoài. Các nhà khoa học đang theo đuổi những cuộc thí nghiệm với nghị lực và quyết tâm không hề suy chuyển. Sự cố gắng của con người để làm sáng tỏ những bí mật ẩn dấu trong thiên nhiên vẫn tiếp diễn không hề giảm sút; những phát minh và phương pháp truyền thông mới đã tạo nên những kết quả bất ngờ. Cho dù những cải tiến này đem lại lợi ích của chúng, chúng vẫn chỉ hoàn toàn là vật chất và ở bên ngoài. Dẫu rằng có được tất cả những thứ đó, con người vẫn chưa thể kiểm soát và chế ngự được tâm trí của mình. Vì thế, với tất cả những tiến bộ khoa học của mình, con người vẫn không hề cảm thấy thảnh thơi, vẫn cứ lo âu và căng thẳng.

Con người đang tìm kiếm những giải pháp cho nhiều vấn đề của họ một cách vô hiệu, bởi vì ngay cách tiếp cận và phương pháp của họ đã là sai lầm. Họ nghĩ rằng mọi vấn đề có thể giải quyết được từ bên ngoài; tuy nhiên , hầu hết các vấn đề lại là ở bên trong. Chúng nẩy sinh ra từ thế giới bên trong, và do đó giải pháp cũng cần tìm ở bên trong.

Những người quan tâm đến việc bảo vệ môi trường đã lên tiếng đối với sự nhiễm bẩn không khí, nước biển và đất liền. Nhưng đối với sư5 nhiễm bẫn tâm trí chúng ta thì sao? Chúng ta có quan tâm một cách công bằng đối với việc giữ gìn và làm sạch tâm trí chúng ta không? Đức Phật đã chỉ ra điều đó: "Tâm trí con người đã nhiễm bẩn từ lâu do tính tham đắm, lòng hận thù và thói huyển tưởng(mê lầm). Sự nhiểm bẩn tâm trí làm chúng sinh không lành mạnh; lắng lọc tâm trí sẽ làm cho họ trong sạch". Lối sống của người theo Phật là một quá trình quyết liệt làm trong sạch hành động, lời nói và ý nghĩ của anh ta. Đó là sự phát triển và lắng lọc chính mình, dần dần dẫn đến nhận rõ chính mình. Điều quan trọng là ở những kết quả trong thực hành, chứkhông phải là suy luận triết học hoặc trừu tượng logic. Do đó hãy thực tập một chúc thiền định trong mỗi ngày, giống như việc làm của con gà mái đối với những quả trứng của nó, thay cho việc chúng ta dành hầu hết thời gian để hành động theo kiểu con sóc guồng chân trong một chiếc lồng quay.

Thiền định không phải là ba&&slash;i thực tập của hôm nay hoặc hôm qua. Từ thuở rất xa xưa, con người đã thực hành thiền định theo các cách khác nhau. Những nhà yoga, những vị thánh và những bậc giác ngộ của mọi thời đại đều đã theo con đường thiền định và mọi thành tựu của họ đều được coi là nhờ ở thiền định. Chưa từng bao giờ và sẽ chẳng bao giờ có bất kỳ sự phát triển hoặc sự lắng lọc tâm trí nào mà không thông qua thiền định. Thiền định chính là phương tiện mà nhờ nó, Sĩ Đạt Tha Cổ Đàm, bậc Đại Giác (Phật), đã đạt tới sự tỉnh thức cao nhất.

Thiền định không chỉ là riêng cho nước Ấn Độ hoặc cho thời Phật còn tại thế, mà là cho tất cả mọi người, mọi thời đại và mọi nơi. Những khác biệt về chủng tộc và tôn giáo, những hạn chế về thời gian và không gian đều không ảnh hưởng đến việc thực tập thiền định.

Mọi tôn giáo đều dạy một loại nào đó của thiền định hoặc của sự đào luyện tâm trí để phát triển nội tâm. Nó có thể là hình thái nguyện cầu lặng lẽ, tụng đọc một mình hoặc tập thể một vài cuốn kinh, hoặc tập trung tâm trí vào một vật, một con người hoặc một tư tưởng thiêng liêng nào đó. Và người ta tin rằng những bài tập tâm trí đó, đến lượt mình, sẽ cho khả năng trong suy tư thấy được ảnh tượng các vị thánh hoặc đấng thiêng liêng, nói chuyện với các vị ấy, hoặc nghe giọng nói, hoặc là diễn ra một vài sự kiện huyền bí. Người ta không thể nói chắc được rằng những hiện tượng đó là những huyền ảnh, tưởng tượng, ảo giác hay chỉ là sự phóng chiếu của tiềm thức hoặc của những hiện tượng có thật. Tâm trí là một sức mạnh vô hình có thể tạo ra tất cả những hiện tượng như thế.

"Một số nhà Yoga và nhà huyền học đã mê mẫn với việc xuất hồn đến nổi nó đã trở thành một thứ thuốc gây mê và họ không còn cảm giác gì cả". Chúng ta đã hiểu những người trong tư thế "thiền định" này, họ đã rơi vào một thứ hôn mê và có vẻ như đắm mình trong suy nghĩ. Chứng kiến sự kiện như vậy, những người khác tưởng lầm rằng đó là một thứ đào luyện tâm trí (bhãvanã: thiền định).

Kinh sách Phật giáo dạy chúng ta rằng nhờ vào sâu thiền định (jhãna: nhập định), thông qua việc phát triển các năng lực tinh thần, con người có thể đạt tới những sức mạnh tâm linh. Nhưng điều hết sức quan trọng phải luôn ghi nhớ là việc vào sâu thiền định của Phật không phải là trạng thái tự thôi miên, hôn mê và vô thức, mà là một trạng thái lắng lọc tâm trí; ở đó, mọi nỗi đam mê và mọi cơn bốc đồng đều bị chế ngự và dịu xuống đến mức mà tâm trí trở thành phẳng lặng, tự chủ và đi vào một trạng thái ý thức rõ ràng và tập trung tư tưởng.

Thật là thú vị khi biết rằng các hiện tượng này đã được ít nhiều thừa nhận thông qua việc nghiên cứu gần đây trong ngành siêu tâm lý học (nghiên cứu các hiện tượng thần kinh ngoài các hiện tượng tâm lý thông thường - nd). Sự quan tâm đến chủ đề về ngoại cảm, trong tâm lý học thực nghiệm, đang gia tăng một cách chập chạp và những kết quả thu được dường như vượt ra ngoài những hiểu biết thông thường. Dẫu sao những cái đó chỉ là những sản phẩm phụ có ý nghĩa thứ yếu khi so sánh với việc giải thoát cuối cùng của con người, tháo gỡ con người ra khỏi những trói buộc, những xiềng xích trong tâm trí. Đôi khi việc xuất hiện nhưng sự kiện lạ thường (trong tâm trí - nd) lại có tác dụng như là một loại xiềng xích và làm chậm quá trình nhận thức và sự giác ngộ (của người tu tập - nd).

Việc đào luyện tâm trí dạy trong đạo Phật chẳng nhằm tới sự hợp nhất với bất kì một đấng chí tôn nào,chẳng nhằm mang lại những kinh nghiệm thần bí, cũng chẳng vì một sự tự thôi miên nào cả. Việc đào luyện tâm trí (thiền định) của đạo Phật chỉ nhằm tăng thêm sự yên ổn trong lòng (samatha:định) và khả năng thấu hiểu bản chất của sự vật (Vipassanã: Minh sát tuệ), vì một mụch đích duy nhất là đạt tới sự giải thoát không thể lay chuyển (bất thoái chuyển: hoàn toàn-nd) của tâm trí (akuppã ceto vimutti) mà thôi. Đó là điều bảo đảm cao nhất thoát khỏi sự dính mắc,đặng diệt trừ hoàn toàn những nhiễm bẩn trong tâm trí. Rất có thể không với ngay tới được đỉnh cao là sự giải thoát không thể lay chuyển của tâm trí như thế, nhưng thất bại không phải là vấn đề đáng quan tâm bằng việc chúng ta có chân thành và trong sáng trong động cơ của chúng ta hay không. Chúng ta hãy cố gắng lên, chớ nao núng. Cố gắng thêm và cố gắng nữa là điều đáng quý biết chừng nào. Vài ngày nữa, nếu không cũng chỉ trong cuộc đời này thôi, chúng ta có thể với tới đỉnh cao nhất, nơi mà những người thật sự nổ lực đã đạt tới.

Ngay cả nếu như chúng ta không đạt tới sự tỉnh thức hoàn toàn, chúng ta cũng chắc chắn rằng sẽ được đền đáp cho nỗ lực của chúng ta. Một xã hội vận động quá mau lẹ rất cần một chút thiền định để giải tỏa những sức ép và sự quá căng thẳng tâm lý và để chịu đựng được những nỗi thăng trầm của cuộc đời. Nhờ đào luyện tâm trí, ta có thể vượt qua được hầu hết những vấn đề tâm lý hoặc tâm thể (tâm trí và thể xác-nd), những bối rối lo âu, những nỗi xúc động, những cơn bốc đồng, và có thêm sự yên ổn, êm đềm trong tâm trí ta.

* Thiền định và thực tại

Như đã biết, một số bệnh tâm thể cũng có thể được chữa trị nhờ thiền định. Chúng ta có thể dùng phép đào luyện tâm trí để chữa trị những căn bệnh về cảm xúc và do quá căng thẳng tâm lý (stress), cũng như để cắt cơn nghiện vật vã đối với ma túy. Thiền định,thư giãn và các loại liệu pháp tinh thần khác có thể được dùng một cách có ích trong việc chữa trị các bệnh lâu năm.

Thiền định là một cách sống, một đường lối sống đầy đủ, chứ không chỉ là một hoạt động bộ phận. Nó nhằm phát triển con người như là một tổng thể. Hãy phấn đấu vì sự tốt đẹp tột cùng ngay bây giờ và tại chỗ này, chứ không phải chờ đến một thời kì hoàng kim nào đó cả. Bằng cách khai mở những sức mạnh tuyệt vời của tâm trí, không có lẽ là ta không thể đạt tới điều mà ta thật lòng mong muốn trong cuộc đời.

Thiền định là một hiện tượng đặc biệt của con người, và do đó, nó nên được ứng xử từ một cách nhìn thuộc về con người với những tình cảm và sự hiểu biết của con người.Những vấn đề của con người và các giải pháp của chúng về cơ bản là có tính chất tâm lý. Thiền định đúng đắn là thuyết thần bí ưéo ta lìa xa thực tại, thì phép đào luyện tâm trí (thiền định) lại đưa ta trở về với thực tại. Vì qua thiền định đúng đắn ta có thể mặt đối mặt nhìn rõ được chân tướng của những huyền tưởng và ảo giác của chính mình. Điều đó dẫn đến một sự chuyển biến hoàn toàn trong nhân cách của ta . Quên đi còn hơn là nhớ biết quá nhiều. Ta phải buông bỏ nhiều điều mà ta đã học được và đã ôm giữ một cách đắc ý một khi ta nhận ra rằng chính chúng là những vật cản và những ám ảnh.

Tất cả những vấn đề về tâm lý đều bắt nguồn từ ngu dốt, từ huyền tưởng. Ngu dốt là điều tệ hại nhất (avijja paramam malam). Ti1nh tham đắm, lòng hận thù, thói kiêu ngạo và nhiều nhiễm bẩn khác nữa của ta là bạn đồng hành khăng khít của ngu dốt. Những biện pháp giải quyết phải được tìm chính ở những vấn đề cần giải quyết, và bởi thế ta không nên lẩn tránh những vấn đề đó. Hãy phân tích sâu sắc và xem xét thật kỹ lưỡng những vấn đề tâm lý này, bạn sẽ thấy rằng chúng toàn là những vấn đề thuộc về con người; do đó đừng nên gán cho chúng những nguyên nhân không phải con người (bên ngoài con người-nd). Những vấn đề thực tế của ta chỉ có thể được giải quyết bằng cách loại bỏ những huyễn tưởng , nhữnh ý niệm sai lầm (vọng niệm-nd) và làm sao cho cuộc sống của ta hòa hợp với thực tại. Điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua quá trình đào luyện tâm trí (thiền định) mà thôi.

(dịch từ "The Spectrum of Buddhism" Plyadassi)

(1) Nhan đề và các tiểu mục là của người dịch



---o0o---

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5053)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5275)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8058)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6185)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5646)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4278)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9215)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5754)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7068)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5767)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]