Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Stress và giá trị của tĩnh lặng

01/04/201317:19(Xem: 5294)
Stress và giá trị của tĩnh lặng

 

STRESS VÀ GIÁ TRỊ CỦA TĨNH LẶNG

MAHATHERA PIYADASSI

HUYỀN CƯƠNG dịch

* Căng thẳng tâm lý (stress) mang tính xã hội là sản phẩm lối sống hiện tại.

Thế giới ngày nay không còn là thế giới của nửa thế kỷ đã qua. Những quan niệm về tốt - xấu đang nhanh chóng đổi thay, những ứng xử tinh thần đang trên đà chuyển biến và quan niệm chung về cuộc sống của con người cũng khác trước nhiều.

Chúng ta đang sống trong thời đại của sự ồ ạt và mau lẹ, sức ép có mặt ở khắp mọi nơi. Nếu bạn đứng một góc phố đông đúc và quan sát lần lượt khuôn mặt từng người đang cuống cuồng, hấp tấp qua lại, bạn sẽ nhận thấy hầu hết họ đều có vẻ bồn chồn; họ mang theo mình một không khí quá căng thẳng về mặt tâm lý (stress). Phần lớn họ là những bức tranh của sự vội vã và lo âu. Rất hiếm khi bạn thấy trên các khuôn mặt này một hình ảnh êm ả, thoải mái và thảnh thơi. Cuộc sống hiện đại là như thế đó.

Thế giới của ngày hôm nay mang đặc trưng của sự dồn đẩy quá đáng, dẫn đến những quyết định chớp nhoáng và những hành động thiếu thận trọng. Một số người la hét trong khi họ có thể nói với giọng bình thường, những người khác thì cất cao giọng một cách kích động, nói từng đợt dài, để rồi kết thúc câu chuyện hầu như kiệt sức. Theo ý kiến của các nhà tâm lý học trên thế giới thì bất kỳ loại kích động nào cũng đều gây ra căng thẳng tâm lý, và sự quá căng thẳng tâm lý sẽ làm tăng tốc các quá trình trong cơ thể. Không hiếm trường hợp một người đang lái xe bị kích động đã nhìn đèn giao thông màu vàng thành màu xanh. Một người đang sốt ruột nhìn một sự việc không quan trọng cũng trở thành như là một cơn khủng hoảng hoặc một mối đe dọa. Kết quả là con người luôn luôn lo âu và đau khổ.

Một điểm nổi bật khác của thế giới hiện đại là sự huyên náo của nó. Người ta thường nói rằng: "Âm nhạc làm say lòng người"; nhưng đối với nhiều người ngày nay, âm nhạc sẽ không đủ gây khoái cảm nếu nó không sôi động. Đối với họ, âm nhạc phải tạo ra những tiếng động inh ỏi hơn, ầm ỹ hơn. Những người sống trong các thành phố lớn không có thì giờ để nghĩ về sự huyên náo, bởi vì họ đã tập quen và thích nghi với nó. Sự náo động, sự quá căng thẳng tâm lý và sự quá gắng sức này sẽ gây nhiều tổn thương và bệnh tật - các bệnh tim mạch, bệnh ung thư, bệnh viêm loét, bệnh căng thẳng thần kinh, suy kiệt tiềm năng và rối loạn cảm xúc - đều là sản phẩm của cuộc sống hiện đại.

Tình trạng suy nhược thần kinh của chúng ta đang gia tăng theo đà tăng tốc của cuộc sống. Cuối ngày làm việc, người ta thường trở về nhà với trạng thái thần kinh đầy bực bội. Hậu quả là sự tập trung chú ý của họ bị suy yếu, hiệu suất của tâm trí và của thể xác đều giảm. Con người trở nên dễ bị kích động, hay bới móc và dể lao vào cãi lộn. Dần dà anh ta sẽ có những kinh nghiệm nội tâm bệnh hoạn, và trở nên nhức nhối, đau đớn và khổ sở vì huyết áp cao và mất ngủ. Những triệu chứng suy nhược thần kinh đó chỉ ra rằng tâm trí và thể xác của con người hiện đại cần phải được nghĩ ngơi - một sự nghĩ ngơi chất lượng cao.

Chúng ta hãy luôn nhớ rằng một chúc tạm lánh, một cách rút tâm trí ra khỏi nỗi bận rộn của cuộc đời, là điều cần thiết để vệ sinh tinh thần. Vào bất kỳ lúc nào bạn có cơ hội, bạn hãy thử rời xa thành phố và đắm mình trong sự suy tư lặng lẽ, mà người ta thường gọi nó là yoga, là sự tập trung suy nghĩ, hoặc là thiền định. Bạn hãy tập quan sát sự yên lặng. Sự yên lặng rất có ý nghĩa đối với chúng ta. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ những ai ầm ĩ, lắm điều, nhiều việc mới là người có quyền lực. Yên lặng là vàng, và chúng ta chỉ nên nói nếu như chúng ta có thể làm tốt hơn sự yên lặng. Năng lực sáng tạo vĩ đại nhất bắt nguồn từ trong yên lặng. Quan sát sự yên lặng là điều hết sức quan trọng. Chúng ta làm việc đó trong lúc thiền định của chúng ta. Bạn hãy lắng nghe những lời sau đây của Đức Phật: "Này các đệ tử, chỉ có hai điều nên làm khi các ông tụ họp với nhau, đó là: "im lặng như chánh pháp nói năng như chánh pháp".

* Giá trị của vắng lặng

Những người đã quá quen với sự náo động nói rằng họ cảm thấy lẽ loi và lúng túng nếu như họ không nói. Nhưng nếu chúng ta tập cho mình một kỹ xảo rèn luyện sự yên lặng, chúng ta sẽ học được nó.

Hãy bước đi một cách điềm tĩnh giữa nơi huyên náo và hối hả, và đinh ninh rằng có một trạng thái êm đềm trong sự yên lặng. Chúng ta cần phải dành thời giờ nhàn rỗi để rút vào chỗ riêng tìm kiếm sự yên lặng. Chúng ta phải, ngay bây giờ và sau này nữa, thoát ra khỏi sự chuyển động, để còn lại là trạng thái im lìm. Đó chính là hình thái êm đềm của sự sống. Chỉ mình ta với ta thôi, ta sẽ kinh nghiệm được giá trị của sự suy tư lặng lẽ, ta làm một cuộc du hành vào bên trong. Khi ta lui về với sự yên lặng, ta hoàn toàn một mình thấy được chính ta như thật ta là, và rồi ta có thể học được cách vượt qua những nhược điểm và những giới hạn trong sự trãi nghiệm bình thường.

Thời gian dành để một mình suy tư trong vắng lặng không hề lãng phí đâu; nó gián tiếp củng cố tính cách con người. Thật là bổ ích cho công việc hàng ngày và sự tiến bộ của chúng ta, nếu như chúng ta có thể tìm được thời gian để dứt mình ra khỏi nếp sống thường lệ và dành một hoặc hai ngày cho việc suy tư lặng lẽ. Đây chắc chắn không phải là trốn chạy hoặc lười nhác, mà là cách tốt nhất để củng cố tâm trí chúng ta. Đây là quá trình nội tâm rất có ích; chính nhờ việc khảo sát ý nghĩ và cảm giác của mình mà chúng ta có thể dò tìm vào ý nghĩa bên trong của các sự vật và phát hiện những sức mạnh bên trong của chúng.

Con người hiện đại rất khát khao sự vắng lặng. Một lát vắng lặng mỗi ngày, một lúc ẩn lánh ngắn ngủi, một chốc tách lìa khỏi "đám đông điên loạn", là hết sức cần thiết để lấy lại được thăng bằng cho tâm trí vốn đã bị rối bời bởi dòng chảy ồ ạt và mau lẹ, bởi những tiếng động ầm ầm và hỗn loạn, rền vang và chát chúa của lối sống hiện đại. Chính là ở trong và thông qua sự vắng lặng mà tâm trí con ngừơi có thêm sức mạnh và quyền lực.

Con người hiện đại mải cầu tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình thay vì kiếm nó ngay bên trong, vì vậy anh ta đã đặt thế giới bên ngoài dưới sự thống trị của anh ta. Dường như khoa học và công nghệ hứa hẹn rằng chúng có thể biến thế giới này thành thiên đàng. Ngày nay có những công trình đang được tiến hành theo hướng cải tạo thế giới bên ngoài. Các nhà khoa học đang theo đuổi những cuộc thí nghiệm với nghị lực và quyết tâm không hề suy chuyển. Sự cố gắng của con người để làm sáng tỏ những bí mật ẩn dấu trong thiên nhiên vẫn tiếp diễn không hề giảm sút; những phát minh và phương pháp truyền thông mới đã tạo nên những kết quả bất ngờ. Cho dù những cải tiến này đem lại lợi ích của chúng, chúng vẫn chỉ hoàn toàn là vật chất và ở bên ngoài. Dẫu rằng có được tất cả những thứ đó, con người vẫn chưa thể kiểm soát và chế ngự được tâm trí của mình. Vì thế, với tất cả những tiến bộ khoa học của mình, con người vẫn không hề cảm thấy thảnh thơi, vẫn cứ lo âu và căng thẳng.

Con người đang tìm kiếm những giải pháp cho nhiều vấn đề của họ một cách vô hiệu, bởi vì ngay cách tiếp cận và phương pháp của họ đã là sai lầm. Họ nghĩ rằng mọi vấn đề có thể giải quyết được từ bên ngoài; tuy nhiên , hầu hết các vấn đề lại là ở bên trong. Chúng nẩy sinh ra từ thế giới bên trong, và do đó giải pháp cũng cần tìm ở bên trong.

Những người quan tâm đến việc bảo vệ môi trường đã lên tiếng đối với sự nhiễm bẩn không khí, nước biển và đất liền. Nhưng đối với sư5 nhiễm bẫn tâm trí chúng ta thì sao? Chúng ta có quan tâm một cách công bằng đối với việc giữ gìn và làm sạch tâm trí chúng ta không? Đức Phật đã chỉ ra điều đó: "Tâm trí con người đã nhiễm bẩn từ lâu do tính tham đắm, lòng hận thù và thói huyển tưởng(mê lầm). Sự nhiểm bẩn tâm trí làm chúng sinh không lành mạnh; lắng lọc tâm trí sẽ làm cho họ trong sạch". Lối sống của người theo Phật là một quá trình quyết liệt làm trong sạch hành động, lời nói và ý nghĩ của anh ta. Đó là sự phát triển và lắng lọc chính mình, dần dần dẫn đến nhận rõ chính mình. Điều quan trọng là ở những kết quả trong thực hành, chứkhông phải là suy luận triết học hoặc trừu tượng logic. Do đó hãy thực tập một chúc thiền định trong mỗi ngày, giống như việc làm của con gà mái đối với những quả trứng của nó, thay cho việc chúng ta dành hầu hết thời gian để hành động theo kiểu con sóc guồng chân trong một chiếc lồng quay.

Thiền định không phải là ba&&slash;i thực tập của hôm nay hoặc hôm qua. Từ thuở rất xa xưa, con người đã thực hành thiền định theo các cách khác nhau. Những nhà yoga, những vị thánh và những bậc giác ngộ của mọi thời đại đều đã theo con đường thiền định và mọi thành tựu của họ đều được coi là nhờ ở thiền định. Chưa từng bao giờ và sẽ chẳng bao giờ có bất kỳ sự phát triển hoặc sự lắng lọc tâm trí nào mà không thông qua thiền định. Thiền định chính là phương tiện mà nhờ nó, Sĩ Đạt Tha Cổ Đàm, bậc Đại Giác (Phật), đã đạt tới sự tỉnh thức cao nhất.

Thiền định không chỉ là riêng cho nước Ấn Độ hoặc cho thời Phật còn tại thế, mà là cho tất cả mọi người, mọi thời đại và mọi nơi. Những khác biệt về chủng tộc và tôn giáo, những hạn chế về thời gian và không gian đều không ảnh hưởng đến việc thực tập thiền định.

Mọi tôn giáo đều dạy một loại nào đó của thiền định hoặc của sự đào luyện tâm trí để phát triển nội tâm. Nó có thể là hình thái nguyện cầu lặng lẽ, tụng đọc một mình hoặc tập thể một vài cuốn kinh, hoặc tập trung tâm trí vào một vật, một con người hoặc một tư tưởng thiêng liêng nào đó. Và người ta tin rằng những bài tập tâm trí đó, đến lượt mình, sẽ cho khả năng trong suy tư thấy được ảnh tượng các vị thánh hoặc đấng thiêng liêng, nói chuyện với các vị ấy, hoặc nghe giọng nói, hoặc là diễn ra một vài sự kiện huyền bí. Người ta không thể nói chắc được rằng những hiện tượng đó là những huyền ảnh, tưởng tượng, ảo giác hay chỉ là sự phóng chiếu của tiềm thức hoặc của những hiện tượng có thật. Tâm trí là một sức mạnh vô hình có thể tạo ra tất cả những hiện tượng như thế.

"Một số nhà Yoga và nhà huyền học đã mê mẫn với việc xuất hồn đến nổi nó đã trở thành một thứ thuốc gây mê và họ không còn cảm giác gì cả". Chúng ta đã hiểu những người trong tư thế "thiền định" này, họ đã rơi vào một thứ hôn mê và có vẻ như đắm mình trong suy nghĩ. Chứng kiến sự kiện như vậy, những người khác tưởng lầm rằng đó là một thứ đào luyện tâm trí (bhãvanã: thiền định).

Kinh sách Phật giáo dạy chúng ta rằng nhờ vào sâu thiền định (jhãna: nhập định), thông qua việc phát triển các năng lực tinh thần, con người có thể đạt tới những sức mạnh tâm linh. Nhưng điều hết sức quan trọng phải luôn ghi nhớ là việc vào sâu thiền định của Phật không phải là trạng thái tự thôi miên, hôn mê và vô thức, mà là một trạng thái lắng lọc tâm trí; ở đó, mọi nỗi đam mê và mọi cơn bốc đồng đều bị chế ngự và dịu xuống đến mức mà tâm trí trở thành phẳng lặng, tự chủ và đi vào một trạng thái ý thức rõ ràng và tập trung tư tưởng.

Thật là thú vị khi biết rằng các hiện tượng này đã được ít nhiều thừa nhận thông qua việc nghiên cứu gần đây trong ngành siêu tâm lý học (nghiên cứu các hiện tượng thần kinh ngoài các hiện tượng tâm lý thông thường - nd). Sự quan tâm đến chủ đề về ngoại cảm, trong tâm lý học thực nghiệm, đang gia tăng một cách chập chạp và những kết quả thu được dường như vượt ra ngoài những hiểu biết thông thường. Dẫu sao những cái đó chỉ là những sản phẩm phụ có ý nghĩa thứ yếu khi so sánh với việc giải thoát cuối cùng của con người, tháo gỡ con người ra khỏi những trói buộc, những xiềng xích trong tâm trí. Đôi khi việc xuất hiện nhưng sự kiện lạ thường (trong tâm trí - nd) lại có tác dụng như là một loại xiềng xích và làm chậm quá trình nhận thức và sự giác ngộ (của người tu tập - nd).

Việc đào luyện tâm trí dạy trong đạo Phật chẳng nhằm tới sự hợp nhất với bất kì một đấng chí tôn nào,chẳng nhằm mang lại những kinh nghiệm thần bí, cũng chẳng vì một sự tự thôi miên nào cả. Việc đào luyện tâm trí (thiền định) của đạo Phật chỉ nhằm tăng thêm sự yên ổn trong lòng (samatha:định) và khả năng thấu hiểu bản chất của sự vật (Vipassanã: Minh sát tuệ), vì một mụch đích duy nhất là đạt tới sự giải thoát không thể lay chuyển (bất thoái chuyển: hoàn toàn-nd) của tâm trí (akuppã ceto vimutti) mà thôi. Đó là điều bảo đảm cao nhất thoát khỏi sự dính mắc,đặng diệt trừ hoàn toàn những nhiễm bẩn trong tâm trí. Rất có thể không với ngay tới được đỉnh cao là sự giải thoát không thể lay chuyển của tâm trí như thế, nhưng thất bại không phải là vấn đề đáng quan tâm bằng việc chúng ta có chân thành và trong sáng trong động cơ của chúng ta hay không. Chúng ta hãy cố gắng lên, chớ nao núng. Cố gắng thêm và cố gắng nữa là điều đáng quý biết chừng nào. Vài ngày nữa, nếu không cũng chỉ trong cuộc đời này thôi, chúng ta có thể với tới đỉnh cao nhất, nơi mà những người thật sự nổ lực đã đạt tới.

Ngay cả nếu như chúng ta không đạt tới sự tỉnh thức hoàn toàn, chúng ta cũng chắc chắn rằng sẽ được đền đáp cho nỗ lực của chúng ta. Một xã hội vận động quá mau lẹ rất cần một chút thiền định để giải tỏa những sức ép và sự quá căng thẳng tâm lý và để chịu đựng được những nỗi thăng trầm của cuộc đời. Nhờ đào luyện tâm trí, ta có thể vượt qua được hầu hết những vấn đề tâm lý hoặc tâm thể (tâm trí và thể xác-nd), những bối rối lo âu, những nỗi xúc động, những cơn bốc đồng, và có thêm sự yên ổn, êm đềm trong tâm trí ta.

* Thiền định và thực tại

Như đã biết, một số bệnh tâm thể cũng có thể được chữa trị nhờ thiền định. Chúng ta có thể dùng phép đào luyện tâm trí để chữa trị những căn bệnh về cảm xúc và do quá căng thẳng tâm lý (stress), cũng như để cắt cơn nghiện vật vã đối với ma túy. Thiền định,thư giãn và các loại liệu pháp tinh thần khác có thể được dùng một cách có ích trong việc chữa trị các bệnh lâu năm.

Thiền định là một cách sống, một đường lối sống đầy đủ, chứ không chỉ là một hoạt động bộ phận. Nó nhằm phát triển con người như là một tổng thể. Hãy phấn đấu vì sự tốt đẹp tột cùng ngay bây giờ và tại chỗ này, chứ không phải chờ đến một thời kì hoàng kim nào đó cả. Bằng cách khai mở những sức mạnh tuyệt vời của tâm trí, không có lẽ là ta không thể đạt tới điều mà ta thật lòng mong muốn trong cuộc đời.

Thiền định là một hiện tượng đặc biệt của con người, và do đó, nó nên được ứng xử từ một cách nhìn thuộc về con người với những tình cảm và sự hiểu biết của con người.Những vấn đề của con người và các giải pháp của chúng về cơ bản là có tính chất tâm lý. Thiền định đúng đắn là thuyết thần bí ưéo ta lìa xa thực tại, thì phép đào luyện tâm trí (thiền định) lại đưa ta trở về với thực tại. Vì qua thiền định đúng đắn ta có thể mặt đối mặt nhìn rõ được chân tướng của những huyền tưởng và ảo giác của chính mình. Điều đó dẫn đến một sự chuyển biến hoàn toàn trong nhân cách của ta . Quên đi còn hơn là nhớ biết quá nhiều. Ta phải buông bỏ nhiều điều mà ta đã học được và đã ôm giữ một cách đắc ý một khi ta nhận ra rằng chính chúng là những vật cản và những ám ảnh.

Tất cả những vấn đề về tâm lý đều bắt nguồn từ ngu dốt, từ huyền tưởng. Ngu dốt là điều tệ hại nhất (avijja paramam malam). Ti1nh tham đắm, lòng hận thù, thói kiêu ngạo và nhiều nhiễm bẩn khác nữa của ta là bạn đồng hành khăng khít của ngu dốt. Những biện pháp giải quyết phải được tìm chính ở những vấn đề cần giải quyết, và bởi thế ta không nên lẩn tránh những vấn đề đó. Hãy phân tích sâu sắc và xem xét thật kỹ lưỡng những vấn đề tâm lý này, bạn sẽ thấy rằng chúng toàn là những vấn đề thuộc về con người; do đó đừng nên gán cho chúng những nguyên nhân không phải con người (bên ngoài con người-nd). Những vấn đề thực tế của ta chỉ có thể được giải quyết bằng cách loại bỏ những huyễn tưởng , nhữnh ý niệm sai lầm (vọng niệm-nd) và làm sao cho cuộc sống của ta hòa hợp với thực tại. Điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua quá trình đào luyện tâm trí (thiền định) mà thôi.

(dịch từ "The Spectrum of Buddhism" Plyadassi)

(1) Nhan đề và các tiểu mục là của người dịch



---o0o---

Trình bày: Linh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6096)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6292)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3989)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8326)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5603)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15608)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10837)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7927)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]