Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

05/02/202516:37(Xem: 57)
Câu Chuyện Về Các Ước Mơ Không Thực Hiện Được

buddha and lotus

 

 

Câu chuyện về các ước mơ

không thực hiện được

 

Hoang Phong

 

Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.

 

Mẹ tôi rời làng quê nơi miền Bắc, khăn gói theo chồng vào Nam từ tiền bán thế kỷ hai mươi, cha mẹ tôi sinh ra tôi trong một tỉnh lỵ nhỏ bé, một nơi tận cùng của sông nước miền Nam. Sau này theo lời kể chuyện lại của mẹ thì khi mới vào Nam mẹ mặc áo tứ thân, quấn khăn lươn quanh đầu, mọi người nhìn mẹ chăm chăm. Rất sớm sau đó thì mẹ bỏ chiếc áo tứ thân, mặc áo bà-ba, quần lãnh đen, quấn tóc thành một búi sau gáy. Thế nhưng mỗi khi mẹ nói chuyện với giọng Bắc kỳ, hở hai hàm răng đen, thì mọi người nhìn mẹ một cách thích thú, trẻ con thì quây quanh với vẻ tò mò. Khi lớn thêm và lúc bắt đầu biết nhận xét thì tôi nhận thấy quả đúng là như thế, mẹ tôi trông giống hệt một phụ nữ Nam Bộ, tóc trên đỉnh đầu rẽ sang hai bên tạo thành một đường ngôi từ trán lên đỉnh đầu, búi tóc sau gáy bọc trong một tấm lưới mỏng màu đen, thỉnh thoảng mẹ tôi còn bôi lên tóc một tí dầu dừa khiến tóc bóng mượt. Giọng nói và hai hàm răng đen hạt huyền của mẹ tôi không còn mấy ai để ý đến nữa.  

 

Đối với riêng tôi thì tôi vẫn nhận thấy nơi mẹ tôi có một chút gì đó khang khác với những người phụ nữ chung quanh. Mẹ thường nói : ‘Mẹ cố gắng làm giống như mọi người, thế nhưng cái giọng Bắc kỳ và hai hàm răng đen thì mẹ chịu, không làm khác hơn được’. Thế nhưng những gì khang khác mà tôi muốn nói không phải là giọng nói Bắc kỳ và hai hàm răng đen của mẹ, mà là một chút gì đó bên trong tâm hồn của mẹ. Mẹ tôi đến với cái xứ Nam kỳ này từ một góc quê hương thật xa, nghèo nàn và cổ kính, ảnh hưởng nặng nề bởi nền tư tưởng Khổng giáo. Vào những đêm nhớ nhà, mẹ thường thuật lại cho tôi nghe gốc gác của cha tôi và quãng đời con gái của mẹ nơi làng quê bên ông ngoại và bà ngoại tôi.  

 

Cha mẹ tôi cả hai cùng sinh ra đời vào thập niên đầu thế kỷ hai mươi, tức là cách nay đã hơn một thế kỷ. Mẹ tôi lớn hơn cha tôi ba tuổi. Vào thời bấy giờ việc gả bán là chuyện của cha mẹ và những người mai mối. Trong gia đình khi có một đứa con trai sắp lớn thì cha mẹ tìm vợ cho con mình, nhưng phải tìm một người con gái xốc vác, đảm đang để quán xuyến việc nhà và việc đồng áng. Vì vậy vợ lớn hơn chồng từ năm đến sáu tuổi, hoặc hơn thế nữa, là chuyện thường tình và cũng là thói tục vào thời bấy giờ. Ngoài bổn phận làm dâu, mẹ tôi còn phải gánh hai thúng hàng xén buôn bán ở các chợ làng để nuôi cha tôi ăn học ở Hà Nội. Mẹ tôi thuật lại là đời sống nơi thôn quê cực khổ lắm, cơm độn ngô, độn sắn, mỗi năm chỉ được ăn thịt một lần vào ngày Tết, họa hoằn lắm là vào những ngày giỗ lớn trong họ. Thế nhưng chỉ có người đàn ông chủ gia đình là được mời, mỗi người cầm theo một cái que. Bữa ăn chia ra thành nhiều mâm, mỗi mâm bốn người, rau canh thì chia nhau ăn và húp, đĩa xôi thì nắm lại thành bốn nắm, đĩa thịt cũng chia ra làm bốn, mỗi người cắm xôi và thịt vào chiếc que của mình mang về nhà cho vợ con.

 

Mẹ tôi lớn lên trong một gia đình nho giáo. Ông ngoại tôi là thầy đồ, thế nhưng là con gái mẹ tôi không được học. Chữ nghĩa là của nam giới, con gái học ngôn hạnh, gánh vác việc nhà. Sau này, khi vào Nam, cha tôi có mua cho mẹ tôi một quyển sách tập đọc. Tự học mẹ tôi biết đọc và cả biết viết. Thế nhưng những gì mà tôi muốn nói là sau đó mẹ tôi thuộc lòng cả ba tập thơ, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm và Đoạn Trường Tân Thanh. Có những đêm mẹ tôi hát lên những vần thơ trong các tập thơ ấy. Thỉnh thoảng mẹ tôi bất chợt hỏi tôi thích đoạn nào trong truyện Kiều thì mẹ tôi sẽ ngâm lên đoạn ấy. Cả câu chuyện tôi cũng không hiểu, huống hồ là từng đoạn một. Tôi nghĩ rằng mẹ hỏi tôi, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách mà mẹ tôi tự hỏi chính mình, đồng hóa mình với các nỗi niềm khắc khoải và đau thương, và cả các ước mơ của các nhân vật trong truyện. Mỗi khi nhận thấy nơi mẹ thoang thoáng một chút lo âu nào đó thì tôi cũng thấy mẹ mang tập truyện Kiều ra để bói.

 

Ngoài những gì khang khác trên đây, tôi còn nhận thấy các sự khang khác sâu kín hơn trong lòng của mẹ. Mẹ thường nói lên với tôi những ước mơ của mẹ, mẹ mong ước một ngày nào đó được trở về làng quê, cắm một nén hương lên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi. Ước mơ đó tuy bình dị và nhỏ nhoi thế nhưng lại là cả một giấc mơ to lớn bên trong lòng mẹ, ngủ yên đã từ bao năm trong tâm hồn của mẹ. Ước mơ đó sẽ không bao giờ thức dậy để trở thành sự thực với mẹ tôi trong thế giới này. Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt trên quê hương tôi, trong suốt kiếp sống của mẹ và của cả cha tôi.

 

Thế nhưng trong cuộc sống hằng ngày, mẹ tôi cũng có những ước mơ thật nhỏ nhoi, bình dị và rất con người, những ước mơ mà mẹ thừa hưởng từ nền giáo dục gia đình và xã hội từ thuở ngày còn bé, một nền giáo dục đặt nặng sự nhẫn nhục, sự hy sinh, sức chịu đựng và quên đi chính mình. Những gì còn lại trong lòng mẹ phải chăng cũng chỉ là các ước mơ mà thôi. Các ước mơ ấy là các ước mơ mà tôi muốn nói đến trong câu chuyện này. Các ước mơ ấy đã ngủ yên từ lâu trong lòng mẹ, thế nhưng lại cựa mình thức dậy, ray rứt và xao xuyến trong lòng tôi khi tôi viết các dòng này.  

 

Tuy vậy cũng có những lúc mẹ tôi rất vui, không ngâm thơ, không bói Kiều, mà hát lên những bài hát thuở ngày con gái nơi làng quê của mẹ, các bài hát trống quân, quan họ, hát đối, hát chèo… mà trai gái trong làng thường hát với nhau nơi sân đình vào những đêm trăng sáng. Qua các tiếng hát đó, tôi thấy hiện lên trong tâm hồn mẹ cả một khung trời tuổi trẻ bên ông ngoại và bà ngoại tôi, tận làng quê nơi miền Bắc xa xôi. Phải chăng đấy là những lúc mà mẹ tôi sống lại với những ước mơ say giấc trong lòng mẹ từ lâu, vụt thức dậy và trở thành sự thực. Tôi hình dung mẹ vừa cắm xong một nén hương trên mộ của ông ngoại và bà ngoại tôi, hoặc đang nôn nóng tối hôm nay trăng rằm sẽ ra sân đình cùng hát với trai gái trong làng. Các giây phút vui sướng đó thật ra chỉ là các ảo giác trong ký ức của mẹ, hiện lên từ các ước mơ của mẹ, những ước mơ mà mẹ sẽ không bao giờ có thể biến chúng trở thành sự thực được. Ảo giác hiện lên từ ước mơ, thực tế biến ảo giác trở thành ước mơ là như vậy.

 

Thế nhưng trong cuộc sống thường nhật mẹ cũng có những ước mơ nhỏ nhoi và bình dị hơn nhiều, nhất là có thể thực hiện được. Thật vậy, ước mơ phải chăng cũng chỉ bắt đầu bằng một chút gì đó thật nhỏ nhoi, chẳng hạn như một ước muốn thoáng qua, trước khi trở thành một ước mơ. Mẹ tôi là một con người tương tự như tất cả mọi người, có những lúc mẹ ước được ăn một món ngon nào đó. Các ước muốn nhỏ nhoi, tự nhiên và bình thường đó của mẹ thường bất chợt hiện lên trong tôi mỗi khi tôi nghĩ đến kiếp người của mẹ, một kiếp người chỉ biết hy sinh vì chồng con và quên cả chính mình.

 

Mẹ tôi thường nói với tôi một câu mà tôi không giờ quên : ‘Đi chợ, lắm khi mẹ muốn ăn quà, thế nhưng mẹ không thể nào ăn một mình, không có cha và các con cùng ăn’. Mẹ tôi thường nói câu ấy với tôi trong những lúc thật bất ngờ, không liên hệ gì đến việc ăn uống cả. Một hôm sau khi đi chợ về, mẹ thuật lại với tôi một câu chuyện khiến tôi rất xúc động, rưng rưng nước mắt :Con biết không, ở chợ có đủ các gánh hàng ăn, nào là bánh cuốn, bún riêu, cháo lòng, bánh xèo…, thế nhưng chưa bao giờ mẹ ngồi ăn một mình ở chợ. Hôm nay bụng đói, đi ngang hàng bánh canh, gạch cua nổi váng trong nồi bánh canh của bà bán hàng, khiến mẹ thèm. Suýt tí nữa là mẹ ngồi xuống ăn, thế nhưng mẹ cưỡng lại được, mẹ nhìn đi nơi khác. Về đến nhà trông thấy mặt con mẹ rất mừng, mẹ hiểu rằng mẹ không phải là người tham ăn’.

 

Không cần mẹ nói tôi cũng biết mẹ là người không tham ăn. Trên mâm cơm, trong tộ canh chua nếu có cặp trứng cá lóc, thì đấy là phần của cha, nếu cha không ăn thì mẹ lấy đũa xắn ra chia cho các con. Miếng ngon trên mâm, không bao giờ mẹ gắp. Nhường nhịn miếng ăn trên mâm phải chăng là cách thể hiện kín đáo tình thương yêu của mẹ đối với chồng con ? Ước mơ trong lòng của một người mẹ thường rất âm thầm và yên lặng, khiến chúng ta không mấy khi nhận thấy, thế nhưng thật ra thì đấy là cả một sự hy sinh.

 

Sau mười-lăm-năm dạy học, tôi rời xa quê hương. Thế nhưng thật ra thì quê hương vẫn còn đó, vẫn còn nguyên, ít nhất là trong ký ức và tâm khảm tôi. Những gì mà tôi bỏ lại phía sau là một bầu không gian giả dối, một khung trời tư tưởng chật hẹp, tham lam và hung bạo. Sau vài năm học lại nơi xứ người, tôi tìm được công ăn việc làm trong một công ty dầu khí mang tầm vóc quốc tế. Ngoài công việc khảo cứu tôi còn được giao phó theo dõi các giếng khoan tầm khảo khắp nơi trên thế giới, từ trên vòng đai bắc cực đến các vùng sa mạc hoang vu, từ vùng vịnh Ba-tư giàu có đến các vùng rừng rậm Phi châu và cả các nước Á châu đa dạng và phức tạp, trong số đó kể cả quê hương tôi. Công việc rày đây mai đó tạo dịp cho tôi tiếp xúc với thiên nhiên và các dân tộc khác nhau, mở ra cho tôi một tầm nhìn bao quát hơn về thế giới này. Tầm nhìn đó không khỏi khiến tôi đôi lúc hồi tưởng lại quê hương tôi, dân tộc tôi và cả những kỷ niệm của riêng tôi vào những ngày thơ ấu.

 

Khung cảnh của cái tỉnh lỵ nhỏ bé nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, những khoảng thời gian êm ấm bên cạnh cha mẹ tôi và cả những giấc mơ ám ảnh tôi trong quá khứ vẫn còn in đậm trong ký ức. Tôi xin thuật lại câu chuyện về một ước mơ vụt hiện lên với tôi trong một bối cảnh thật bất ngờ, câu chuyện xảy ra cách nay đã gần bốn-mươi năm. Tôi được công ty giao phó theo dõi một giếng khoan trong eo biển Macassar thuộc lãnh thổ của xứ Indonesia. Tôi lấy máy bay từ Paris đến Singapore, sáng hôm sau lại lấy máy bay đi Jakarta, tại đây tôi phải đến trụ sở của công ty để tham khảo thêm tài liệu và thảo luận với các chuyên gia khác. Sáng hôm sau lấy máy bay đến tỉnh lỵ Palikpapan trên đảo Borneo, và sau đó lại chuyển sang trực thăng đưa tôi lên giàn khoan trên biển. Trong những lúc bận rộn vì công việc và căng thẳng vì trách nhiệm, tôi thường đánh mất hết các điểm tựa xúc cảm riêng tư nơi con người mình. Tuy nhiên trong những lúc thư giãn hơn, dù chỉ là ngắn ngủi, tôi vẫn cố gắng tìm lại những gì sâu kín trong lòng, hầu mang lại cho tôi một chút thăng bằng và yên lặng hơn trong tâm hồn mình.

 

Trong chuyến công tác đó, khi đến Singapore thì chi nhánh của công ty đã đặt phòng trước cho tôi tại một trong các khách sạn sang trọng nhất. Tối hôm đó tôi ngồi ăn trong nhà hàng ăn nơi tầng cao nhất của khách sạn. Khách đông, các cô hầu bàn ăn mặc đồng phục cũng đông. Trong số các người khách đang ăn thì duy nhất chỉ có tôi là ngồi lẻ loi, trước mặt là thức ăn và một lọ hoa. Một cô hầu bàn tiến đến bàn của tôi gợi chuyện, giải thích về các món ăn của Singapore, mô tả các sự sinh hoạt nơi thành phố này. Một cô hầu bàn thứ hai dường như trông thấy tình trạng khá tế nhị đó của cô thứ nhất, bèn tiến đến bên cạnh tôi, gợi chuyện và gắp thức ăn cho tôi. Hai cô hầu bàn giúp cho một khách ăn bớt lẻ loi là một hình thức lịch sự, một trách nhiệm đối với nghề nghiệp của mình, thế nhưng lại khiến tôi cảm thấy khá lúng túng. Vào đúng lúc đó vụt hiện lên trong tâm trí tôi hình ảnh của mẹ tôi đang đi ngang gánh hàng bánh canh trong khu chợ chồm hỗm. Bỗng nhiên tôi ước mong được đưa mẹ vào một khách sạn thật sang trọng tại Singapore, Bangkok hay Jakarta, để mẹ nghỉ ngơi một đêm trong cuộc đời mẹ, và cũng để mẹ thưởng thức một vài món ăn thật ngon. Tôi hình dung mẹ tôi với búi tóc sau gáy, mặc áo the đen, mang dép nhung thêu cườm, cùng với tôi bước vào cửa một khách sạn to lớn. Hai nhân viên gác cửa khẽ nghiêng người chào, kéo hai cánh cửa thật lớn đón rước mẹ con tôi.

 

Hình ảnh tưởng tượng bất ngờ đó khiến tôi rơm rớm nước mắt. Tôi vội cúi xuống cầm chiếc khăn ăn giả vờ lau miệng, thế nhưng thật ra là để chậm những giọt nước mắt lăn dài trên má. Một cô hầu bàn thấy tôi yên lặng cúi xuống, vội chúc tôi ăn ngon và rút lui, cô thứ hai cũng rút lui. Tôi ngồi thẫn thờ và đơn độc… Mẹ tôi mỗi năm cũng chỉ mặc áo dài một lần để lên chùa lễ Phật vào đêm giao thừa, và thật ra thì mẹ tôi cũng chỉ có một chiếc áo dài duy nhất bằng the đen, trước khi đi thì kéo đôi dép nhung đen thêu cườm dưới gầm chiếc tủ đứng, mỗi tay cầm một chiếc, đập đập vào nhau vài cái trước khi mang vào chân. Mẹ tôi là một phụ nữ quê mùa, bước chân vào một khách sạn sang trọng có thể không mang một ý nghĩa nào cả. Phải chăng cử chỉ không nhìn vào nồi bánh canh trong khu chợ chồm hỗm mới thật sự mang nhiều ý nghĩa hơn chăng, ít nhất là đối với mẹ ?

 

Mẹ tôi và tôi cùng sống trong những giấc mơ. Sự khác biệt trước nhất là các ước mơ nhỏ bé của mẹ từ những ngày xa xưa nay đã hóa thành to lớn và thiết tha trong tôi. Sự khác biệt sau đó là mẹ đã biến các ước mơ nhỏ bé của mẹ trở thành sự thực bên trong lòng mẹ, trái lại các ước mơ to lớn và thiết tha của tôi sẽ mãi mãi chỉ là ước mơ.  

 

Bures-Sur-Yvette, 04.02.25

 Hoang Phong

 

Chiều về chênh chếch đồi xa,

Nghiêng nghiêng giọt nắng hiên nhà nắng phai.

Chiều sa tím dãy đồi dài,

Tím màu mắt mẹ những ngày xa xưa.

 

Trước sân cành lá đong đưa,

Như ru nhịp võng mẹ đưa ngày nào.

Chiều buông nhớ mẹ nao nao,

Buông vào quá khứ chìm vào tuổi thơ.

 

Thời gian ngày bé hững hờ,

Trôi nhanh cuốn cả giấc mơ thật thà.

Mơ rằng khi lớn làm ra,

Xây nhà mẹ ở mua quà mẹ ăn.

 

Paris, 10.08.92


Giấc Mơ Thật Thà

Hồng Vân diển ngâm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4620)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5561)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5692)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8881)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6747)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6479)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4723)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 10104)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6513)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 8248)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]