Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Bố Úy

03/02/202512:27(Xem: 156)
Vô Bố Úy
buddha-407VÔ BỐ ÚY
(Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh thiền sư)

 

Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.

Tại sao chúng ta sợ hãi? có vô vàn nỗi sợ: Sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ mất mát, sợ hao tổn, sợ thiệt thòi, sợ chia lìa, sợ bêu xấu, sợ nhục, sợ bị phỉ báng, sợ nghèo… và trên hết là sợ chết. Tất cả chung quy cũng chỉ vì cái “tôi” vô hình vô tướng. Chúng ta yêu cái “tôi”, cái “ngã”, chấp vào cái “ngã” cho rằng thân này là thật. Điều này đã huân tập từ vô lượng kiếp rồi đâu thể nào dễ buông bỏ. Đọc kinh sách, hiểu văn tự, thông chữ nghĩa là vậy nhưng đó chỉ là lý thuyết, khi đụng việc thì mới biết thật giả thế nào.

Cái thân này không thật, ngũ uẩn này do duyên hợp chứ không phải thật, nếu nó thật thì: “Người đời có thể xin cho các uẩn như thế này hoặc như thế kia. Vì nó không thật nên người đời không thể xin cho nó không như thế này hoặc không như thế kia” (Kinh Suy Niệm về Nghiệp). Buông được cái “tôi”, không còn chấp ngã là một việc vô cùng khó nhưng một mai làm được thì chẳng có gì có thể khiến chúng ta sợ hãi nữa.

Tại sao các ngài vô úy? Bộ các ngài không có thần kinh, không có trái tim, không có cảm giác sao? Bộ các ngài là thân kim cang sao? Không phải vậy! Các ngài cũng thân thể vật chất như chúng ta. Các ngài cũng vay mượn cơm nước, không khí, cũng đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần như chúng ta. Thế tại sao các ngài vô úy? Vì các ngài đã vượt qua mặt lý thuyết, đã biến chữ nghĩa văn tự thành sự thật. Các ngài ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã, không còn chấp ngã. Có thể các ngài chưa chứng đắc hoặc giả đã chứng đắc nhưng không tùy tiện hiển lộ để mê hoặc lòng người. Các ngài ngồi xem thịnh suy của thời cuộc thế sự mà lòng không lay động, không sợ hãi. Đừng nói là thế sự thịnh suy, ngay cả Phật pháp cũng thịnh suy là lẽ tự nhiên, là quy luật của vô thường. Đọc kinh sách ta thấy ngài Mục Kiền Liên là bậc thánh tăng chứng đắc có thần thông, ngài biết trước sẽ bị bọn ngoại đạo giết chết và băm vằm thân xác nhưng ngài vẫn thản nhiên như chẳng có việc gì. Tổ sư Từ khi bị vua nước Kế Tân hỏi mượn cái đầu, ngài đưa cổ cho vua cắt mà cả thân tâm đều không một chút sợ hãi, hối hận hay giận dữ, thản nhiên cứ như cho mượn viên sỏi hạt bụi. Có thể chúng ta lý luận là ngài trả nghiệp hoặc là  bậc thánh nhân du hí nhân gian. Không bàn ở khía cạnh này, ở đây chỉ nói về tinh thần vô úy mà thôi! Ngài đã ngộ vô thường, buông bỏ cái ngã , đã hoàn toàn “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn” (Tâm Kinh). Các ngài đã thật sự “Vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố” (Tâm Kinh). Tổ sư Từ cho vua nước Kế Tân mượn đầu nào có khác gì tiền thân của đức Phật xả bỏ thân mạng để cứu bầy cọp đói!

Lão Triệu cũng thế, ngài vốn là ông tăng trẻ xuất chúng, viết Triệu Luận làm chấn động Phật môn Trung Nguyên, ảnh hưởng sâu rộng đến giới tu học duy thức Trung Nguyên và cả những nước lân cận như: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam… Năm 31 tuổi  bị nạn nhà Hậu Tần, trước khi thọ hình chém đầu, ngài ung dung thanh thản đọc kệ:

Tứ đại vốn không chủ

Ngũ ấm gốc cũng không
Đưa đầu nhận kiếm bén
Như chém làn gió xuân

Thật phi thường, xem việc chém đầu như làn gió xuân, chúng ta không bàn về nguyên nhân hay những vấn đề liên can đến việc thọ nạn, ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần vô úy, cảm nhận và khâm phục sự vô úy của các ngài.

Ngài Huyền Trang một mình một bóng vượt vạn lý sang Tây Trúc thỉnh kinh. Ngài đối mặt với sự cô độc, dấn thân giữa rừng thiêng nước độc, sa mạc cát cháy, tuyết lãnh buốt sương, cường sơn thảo khấu, phiến quân bạo chúa, thú dữ độc trùng… mà không hề sợ hãi, không thối thất tâm bồ đề, không nản chí ngã lòng. Thật không biết dùng từ ngữ gì để mà miêu tả cho hết nỗi gian nan nguy hiểm trên đường đi. Ngài đã đi và về mất 19 năm ròng.

HUYỀN DIỆU CƠ DUYÊN THIỀN VIỆN DU TĂNG XUẤT VẠN LÝ TÂY THIÊN TẦM SƯ THÍNH PHÁP SƯU KHẢO VĂN BẢN CHÁNH

TRANG NGHIÊM THÙ THẮNG PHẬT MÔN ĐẠI SƯ LÂM TỨ PHƯƠNG ĐÔNG ĐỘ GIÁO CHÚNG DỊCH KINH TRUYỀN BÁ THÁNH ĐIỂN NGÔN

 

Thế sử và Phật sử hiện đại cũng cho thấy một vị hòa thượng vô bố úy như thế nào. Vì pháp nạn mà hòa thượng Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, thượng cúng dường mười phương chư Phật, hạ hy vọng soi rọi tâm trí người mê, thức tỉnh kẻ thủ ác. Ngài ngồi giữa biển lửa mà nét mặt bình thản, tay thủ ấn, toàn thân bất động, không một cử chỉ hay một âm thanh nào tỏ ra đau đớn hay sợ hãi. Sự vô úy của ngài làm lay động toàn thể lương tâm nhân loại, cả thế giới sững sờ khâm phục.

Các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sỹ cũng là những tấm gương vô úy trong thời đại hôm nay. Các ngài vì đạo pháp, vì dân tộc, vì tiền đồ non nước mà chịu tù đày, cấm bế, khủng bố, mạ lỵ… mà không chút sờn lòng, không hề lung lay ý chí, không thối thất tâm bồ đề. Thậm chí ngài Tuệ Sỹ mang bản án tử hình ấy vậy mà vẫn tự tại trong chốn lao tù. Ngài ngồi gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn thế sự, tù đày và hình án chẳng làm bận lòng, ngày ngày vẫn:

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường tối thắng tôn

Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Thân mình chịu hình án cũng chẳng đáng là bao so với sự thống khổ của thế gian ngập chìm trong huyết hận. Án tử cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái khổ trong vô minh trầm mịch của chúng sanh. Các ngài đã không còn xem cái thân là thật, đã thật sự buông được cái ngã, phá được sự chấp ngã nên mới vô úy như thế!

Vô úy trong Phật môn là thế, ngoài đời cũng có nhiều tấm gương vô úy, tuy họ không biết hay chưa biết đến Phật pháp nhưng họ cũng thể hiện tinh thần vô úy, truyền sự vô úy đến với mọi người. Chúng ta thấy ban nhạc trên con tàu Titanic vô cùng can đảm và vô úy. Họ như những tượng đài bất diệt, cứ chơi nhạc như không có gì xảy ra, mặc cho con tàu đang chìm nhanh vào làn nước biển. Họ muốn duy trì và giữ vững tinh thần cho những nạn nhân còn lại trên boong tàu. Họ chơi nhạc như những buổi biểu diễn bình thường để vực dây tinh thần những con người đang hoảng loạn cùng cực trước cái chết. Họ đang thực hành vô úy, bố thí vô úy.

Ba trăm lính cứu hỏa của thành phố Nữu Ước lao vào tòa nhà World Trade Center. Họ hoàn toàn biết rằng tòa nhà đang cháy và đang sụp đổ. Họ biết cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ vẫn vào để cứu người. Những con người vô úy, đang thí vô úy, thực hành vô úy. Những người lính cứu hỏa ấy cũng bằng xương thịt như ta, cũng biết đau đớn và sợ hãi như mọi người, cũng có cha mẹ, vợ con, gia đình, sự nghiệp như mọi người… Ấy vậy mà họ lao vào cái chết không chút sợ hãi, trong cái khoảnh khắc nghiệt ngã này họ đã buông được cái ngã, sống chết vì tha nhân. Họ chưa hề biết đến Phật pháp nhưng đã thực hành vô úy, bố thí vô úy như thể những bồ tát hóa thân.

 

Nước Mỹ vốn được mệnh danh là đất mơ (dream land), đất tự do (freedom land) xưa nay bao dung cưu mang hàng chục triệu nạn nhân của áp bức bất công, đàn áp chính trị, kỳ thị tôn giáo hoặc giới tính, nạn nhân đói nghèo, chiến tranh, thiên tai… Ngày hôm nay đang biến động mạnh, một chính phủ cực hữu da trắng được lãnh đạo bởi những kẻ cục súc, độc ác, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen. Một chính phủ đứng đầu bởi một con người gian trá, thô lỗ, hung hãn cả một đời chưa từng nói được một lời thật, một lời tử tế, chưa làm được một việc gì thiện lành. Với y chỉ có tiền, tiền và tiền, tiền là tất cả. Y và chính phủ của y đang gieo rắc sự khủng bố đến với những con người thấp cổ bé họng. Y đang chà đạp lên công lý và luật pháp. Y hiện thân chẳng khác những tay độc tài tàn bạo của những xứ sở lạc hậu chậm tiến. Hầu hết những người gìau có, quyền thế đều khom lưng quỳ gối thần phục y. Ấy vậy àm có một vị nữ mục sư đã dám nói lời thật trong ngày đầu y đi lễ nhà thờ. Bà Wariann Edgar Budde đã phát biểu: “Hãy yêu thương hàng xóm của bạn, hãy bảo vệ những người cần được bảo vệ, ngừng nói lời cay nghiệt, ngừng so sánh và ngừng dựa vào dáng vẻ bề ngoài vì nó thoáng qua nó không giúp ích gì cho bạn khi xác thân này tắt thở. Tham lam, giận dữ và ảo tưởng không phải là con đường”.

Kể cũng can đảm lắm thay, dẫu chưa phải là vô úy trước sanh tử nhưng ít ra cũng vô úy trước bạo lực cường quyền, dám lên tiếng trước cái xấu, cái ác. Cả xã hội đang dao động, nhất là những người di dân không giấy tờ, nhưng tầng lớp dưới đáy xã hội bất an trước những sắc lệnh hành pháp cắt giảm trợ cấp. Nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường đang lo lắng vì sự thiển cận hẹp hòi của kẻ ác đang cản trở và phá hoại những thành quả bấy lâu nay.

Có một điều khá quái lạ là người Việt hải ngoại phần lớn là những người di dân, tỵ nạn nhưng lại đi phò kẻ kỳ thị người tỵ nạn, thậm chí họ tôn thờ y như thiên sứ mới ghê. Rất nhiều người hùa theo y bằng cả lời nói và hành động, tham gia bạo loạn, ủng hộ sự kỳ thị, đe dọa khủng bố những người dám nói sự thật, dám lên tiếng vì công lý, nhân quyền. Những người Việt tỵ nạn đi phò kẻ khủng bố gieo rắc sợ hãi và kỳ thị lên người gốc châu Á, nói sao cho hết sự ngu si tàn nhẫn như thế này! Những người Việt ủng hộ sự khủng bố đối với người tỵ nạn mà họ quên rằng trước đây họ cũng là những thuyền nhân, những người tù, những nạn nhân của khủng bố chính trị, đói nghèo từ Việt Nam được chính phủ Jimmy Carter bao dung cho nhập cư. Vô minh và vô cảm đến thế là cùng, thật khó mà làm cho họ hồi tâm chuyển ý nếu không muốn nói là không thể. Bởi vậy mà sách vở có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay”. Để lý giải cho cái sự cuồng của người Việt chỉ có thể nói là “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”. Ở đây chỉ là cái sự tầm nhau ở sự ác, sự thô lỗ, sự vô cảm… chứ còn thân phận Việt da vàng mũi tẹt tỵ nạn thì đâu đã trở thành thượng đẳng da trắng được!

Trong cái hoàn cảnh khủng bố như thế, bà Mariann Edgar Budde dám nói thật, nói thẳng như thế cũng có thể xem như thực hành vô úy, úy lạo đến những con người thấp cổ bé họng đang trong cơn sợ sệt. Sự tôn phò của đám đông cuồng loạn khiến không ít người trong chúng ta chán nản, mất niềm tin, lo lắng… Những lúc này cần biết bao những con người vô úy, cần lắm những hành động vô úy, lời nói vô úy!

Ngày xuân đọc xem lại những tấm gương vô úy của các bậc thượng nhân, các anh hùng trượng phu mà thấy lòng ấm áp và dường như có chút gì đó cũng khiến cho lòng mình bớt dao động. Học hạnh vô úy, thực hành vô úy bố thí vô úy không phải chỉ những bậc trượng phu mới làm được. Mọi người chúng ta cũng có thể học chút chút, từ lý thuyết đến thực hành tuy có một khoảng cách rất xa nhưng mỗi ngày một chút, bắt đầu từ việc nhỏ nhặt nhất, căn bản nhất như không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ hung ác. Ngay trong đời thường cũng có thể đứng với những người thấp cổ bé họng, giúp đỡ những người cùng khổ hay phóng sanh một con vật ấy cũng chính là thực hành vô úy, bố thí vô úy.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 2025

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2021(Xem: 5228)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Ba (June 08) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Tikabigar và Kutitya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 377 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiên mặt (Mỗi phần quà trị giá: 15usd.75cents >< 377 hộ = . Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
12/06/2021(Xem: 6066)
Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
10/06/2021(Xem: 15621)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
09/06/2021(Xem: 6264)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 5748)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 6258)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 6736)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
07/06/2021(Xem: 14767)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 15372)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
07/06/2021(Xem: 13971)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 9 tháng 7 năm 2018, trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm Mậu Tuất, Phật lịch 2562 này, tôi bắt đầu đặt bút viết tác phẩm thứ 66 của mình sau hơn 45 năm (1974-2018) cầm bút và sau hơn 42 năm ở tại Âu Châu (1977-2018). Những sách của tôi viết bằng tiếng Việt hay dịch từ các ngôn ngữ khác ra Việt ngữ như: Anh, Đức, Hán, Nhật đều đã được in ấn và xuất bản với số lượng ít nhất là 1.000 quyển và có khi lên đến 2.000 quyển hay 5.000 quyển. Vấn đề là độc giả có nắm bắt được bao nhiêu phần trăm ý chính của kinh văn hay của sách dịch lại là một việc khác. Người viết văn, dịch sách cũng giống như con tằm ăn dâu thì phải nhả tơ, đó là bổn phận, còn dệt nên lụa là gấm vóc là chuyện của con người, chứ không phải của con tằm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]