Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy Xa Lìa Khen và Chê

01/02/202512:42(Xem: 37)
Hãy Xa Lìa Khen và Chê
lotus1
Hãy Xa Lìa Khen và Chê

Nguyên Giác



Trong giao tiếp xã hội, chúng ta thường nghe những hình thức khen và chê. Có người tự khen mình học giỏi, kinh doanh thành công, và rồi chê người khác học kém, kinh doanh thất bại. Đôi khi trong tứ chúng của Phật giáo cũng có người suy nghĩ rằng: "Tôi giỏi, người khác kém." Đừng nghĩ như thế. Đức Phật dạy rằng người tu hãy lo tu theo đúng chánh pháp, và đừng khen mình hay chê người.

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nói rằng người tu không nên giữ tâm phân biệt. Do vậy, những lời khen cũng như hoa trời rơi trên thân sẽ rơi xuống đất, không bị vương vào áo hay thân. Trong Kinh EA 17.9 Sutra cũng ghi lời Đức Phật dạy rằng người tu hãy tự thấy mình với người khác không dị biệt nhau, rằng giữa mình và người khác không có gì thêm, hay bớt. Trong Kinh MN 113 Sutta cũng ghi lời Đức Phật dạy rằng người tu không nghĩ mình là bất cứ vật gì.

Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nơi Chương 7, kể rằng khi một Thiên nữ thấy các chúng sinh cõi trời và cõi người vào thất của ngài Duy Ma Cật nghe pháp, nên mới hiện thân xuống để rải hoa trời lên các Bồ tát và Đại đệ tử. Hoa rắc trên thân các Bồ tát tức thì rơi xuống đất, nhưng rắc trên thân các Đệ tử thì bám vào. Tất cả các vị Đệ tử dùng thần lực phủi hoa, nhưng hoa không đi.

Thấy vậy, Thiên nữ hỏi Xá-lợi-phất: «Sao ngài phủi hoa đi?»
Xá-lợi-phất đáp: «Hoa này không như pháp, nên phải phủi đi.»
Thiên nữ nói: «Đừng nói hoa này không như pháp. Vì sao? Vì chúng không có gì phân biệt, mà chính ngài đang khởi tâm phân biệt. Nếu người xuất gia trong Phật pháp mà còn có cái phân biệt, cái đó mới là không như pháp. Nếu không khởi phân biệt nữa, đó là như pháp. Nhìn chư Bồ tát xem, hoa không bám được vào thân vì các ngài đã đoạn trừ hết thảy tưởng phân biệt. Cũng như người khi đang run sợ thì bị Ma lung lạc. Những người còn sợ sinh tử nên bị sắc, thinh, hương, vị, xúc lung lạc. Người không còn sợ hãi, thì tất cả năm dục không làm gì được. Vì tập khí của kết sử vẫn còn nên hoa bám được thân đó thôi. Nếu tập khí của kết sử trừ sạch, hoa không bám được.»

Đoạn Kinh trên chỉ nhằm nhấn mạnh phải giữ tâm không phân biệt. Thực tế, lời Đức Phật dạy trong tất cả các kinh, dù Nam Truyền hay Bắc Truyền, đều ghi rõ là đừng khởi tâm phân biệt.

Kinh EA 17.9 Sutra ghi rằng những người ác tri thức tự sinh tâm niệm này: ‘Ta thuộc dòng hào tộc xuất gia học đạo. Các sư khác thuộc dòng ti tiện xuất gia."

Tương tự, người ác tri thức tự nghĩ: "Ta siêng trì giới. Người khác không trì giới."
Tương tự, người ác tri thức tự nghĩ: "Ta đã thành tựu tam-muội. Các sư khác không có tam-muội."
Tương tự, người ác tri thức tự nghĩ: "Ta trí tuệ bậc nhất. Các sư khác không có trí tuệ."
Tương tự, người ác tri thức tự nghĩ: "Ta được tôn kính, được cúng dường nhiều. Các sư khác không được tôn kính, không được cúng dường nhiều."

Kinh EA 17.9 Sutra ghi rõ rằng người thiện tri thức không tự khen mình, và không chê người khác. Thiện tri thức giữ tâm không phân biệt vì tự thấy thân tâm của mình không khác gì với thân tâm người khác, và thấy không có gì thêm, cũng không thấy có gì bớt.

Tương tự. Kinh MN 113 Sutta ghi lời Phật dạy rằng người tu chỉ nên bận tâm với chuyện hành trì đúng pháp, một cách chơn chánh, và đừng bận tâm với chuyện so sánh, khen hay chê.

Kinh này ghi rằng người tu đừng khen mình và chê người vì tự thấy mình xuất thân gia đình quý tộc, hay vì mình nổi tiếng, hay vì mình học nhiều, hay vì mình giới luật nghiêm trì, hay vì mình thuyết pháp giỏi, hay vì mình theo hạnh sống ở núi rừng, hay vì mình theo hạnh mặc phấn tảo y, hay vì mình theo hạnh khất thực, hay vì mình theo hạnh sống tại nghĩa địa, hay vì mình theo hạnh chỉ ngồi và không nằm, hay vì mình vào được bốn tầng thiền, hay vì mình đắc thần thông, và vân vân.

Đức Phật nói rằng người tu sẽ sai lầm khi nói rằng mình làm được mà người khác không làm được. Bởi vì người đã có trí tuệ và đã đoạn trừ lậu hoặc sẽ không còn niệm nào khởi lên trong tâm để nghĩ rằng mình là gì nữa.

Kinh MN 113 ghi lời Phật dạy rằng: "Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không nghĩ mình là bất cứ vật gì, không nghĩ đến bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ vì sự việc gì." (Bản dịch của Thầy Minh Châu)

Do vậy, là người tu theo Đức Phật, chúng ta không nên thấy rằng có cái tôi nào khác với người. Đừng bận tâm khen hay chê. Đừng thấy thân và tâm của mình khác biệt gì với thân tâm người khác. Đừng để một niệm nào khởi lên trong tâm để nghĩ rằng mình là gì nữa. Chỉ nên chú tâm vào việc tu cho đúng pháp.

.... o ....

Avoid both praise and criticism.

Written and translated by Nguyên Giác


In social interactions, we frequently encounter expressions of both praise and criticism. Some individuals commend themselves for excelling in their studies and achieving success in business while simultaneously criticizing others for their academic shortcomings and business failures. Occasionally, within the four groups of Buddhists, some may adopt the mindset of, "I am good; others are bad." However, it is important to avoid such thinking. The Buddha taught that practitioners should concentrate on following the right Dharma and refrain from self-praise or disparaging others.
 
The Vimalakirti Sutra states that practitioners should cultivate a non-discriminating mind. Consequently, praise or heavenly flowers that fall upon the body will not adhere to clothing or the body but will instead fall to the ground. In the EA 17.9 Sutra, the Buddha further instructed that practitioners should perceive themselves as no different from others, emphasizing that there is no distinction of more or less between themselves and others. Similarly, in the MN 113 Sutta, the Buddha taught that practitioners should refrain from identifying themselves as anything in particular.
 
In Chapter 7 of the Vimalakirti Sutra, it is stated that when a goddess observed heavenly and human beings entering Vimalakirti's mansion to listen to the Dharma, she manifested herself and scattered celestial flowers upon the Bodhisattvas and Great Disciples. The flowers that fell on the Bodhisattvas' bodies immediately dropped to the ground, while those that landed on the Disciples' bodies adhered to them. All the Disciples employed their supernatural powers to brush the flowers away, but the flowers remained in place.
 
Seeing this, the goddess asked Sariputra, "Why did you brush the flower away?"
 
Sariputra responded, "We must discard this flower because it does not align with the Dharma."
 
The goddess said, “Do not claim that these flowers are not in accordance with the Dharma. Why? Because they possess no distinction; rather, it is you who are generating a mind of distinction. If a monk within the Buddha's Dharma still harbors distinctions, he is not in accordance with it. Conversely, if he no longer generates distinctions, he is in accordance with the Dharma. Observe the Bodhisattvas: flowers cannot cling to their bodies because they have eradicated all thoughts of distinction. It is akin to a person trembling with fear, shaken by the Devil. Form, sound, smell, taste, and touch sway those who still fear birth and death. For those who are no longer afraid, the five desires hold no power. However, as long as the habitual tendencies of the fetters persist, the flowers can cling to that body. The flowers cannot cling if we completely eradicate the habitual tendencies of the fetters.
 
The passage emphasizes the importance of preventing the mind from engaging in discrimination. In fact, the Buddha's teachings in all sutras, whether from the Southern or Northern traditions, clearly state that one should not cultivate a discriminating mind.
 
EA 17.9 Sutra states that individuals with malevolent intentions harbor the belief: "I come from a noble lineage and have renounced worldly life to study the Dharma, while other monks are of humble origins and have also left home to pursue the Dharma."
 
Similarly, a malevolent individual reflects, "I am diligent in adhering to the precepts, while others fail to do so."
Similarly, a malevolent individual thinks to himself, "I have attained samadhi, while other monks have not."
Similarly, a malevolent individual thinks to himself, "I am superior in wisdom; other monks lack wisdom."
Similarly, a malevolent individual thinks to himself, "I am respected and receive many offerings, while other monks are neither respected nor given such offerings."
 
EA 17.9 Sutra clearly states that a wise person neither praises himself nor criticizes others. A wise individual maintains a non-discriminating mind, recognizing that his own body and mind are no different from those of others, perceiving neither addition nor subtraction in their essence.
 
Similarly, the MN 113 Sutta records the Buddha's teaching that practitioners should focus solely on practicing the Dharma correctly and authentically, without being preoccupied with comparison, praise, or criticism.
 
This sutra advises practitioners against self-praise and the criticism of others based on comparisons. It cautions against viewing oneself as coming from a noble family, being famous, possessing extensive knowledge, strictly adhering to precepts, excelling in preaching the Dharma, residing in mountains and forests, wearing ragged robes, begging for alms, living in cemeteries, only sitting without lying down, having entered the four stages of concentration, or having attained supernatural powers, among other similar notions.
 
The Buddha stated that a practitioner would be mistaken if he claimed to possess abilities that others do not. A person who has attained wisdom and eliminated defilements will no longer experience thoughts that lead him to contemplate his own identity.
 
MN 113 Sutra records the Buddha's teachings: "Furthermore, take a true person who, going totally beyond the dimension of neither perception nor non-perception, enters and remains in the cessation of perception and feeling. And, having seen with wisdom, their defilements come to an end. This is a mendicant who does not conceive with anything, does not conceive regarding anything, does not conceive through anything.” (Translated by Bhikkhu Sujato)
 
Therefore, as Buddhist practitioners, we should recognize that there is no self that is separate from others. We should refrain from dwelling on praise or criticism. We must not perceive our body and mind as distinct from the bodies and minds of others. Let us not allow any thoughts to arise regarding our identity. Instead, we should concentrate solely on practicing in accordance with the Dharma.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
-- Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Chương 7, bản dịch Tuệ Sỹ:
https://thuvienhoasen.org/p16a1645/chuong-7-quan-chung-sanh
-- Kinh EA 17.9: https://suttacentral.net/ea17.9/vi/tue_sy-thang
-- Kinh MN 113: https://suttacentral.net/mn113/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/mn113/en/sujato
..... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2010(Xem: 9344)
D.T. Suzuki (1870 -1966) thườngđược xem là một trong những vị thiền sư lớn nhất của thế kỷ XX. Thật ra thì rấtkhó hay không thể để chúng ta có thể đo lường được chiều sâu của sự giác ngộtrong tâm thức của các vị thiền sư, vì việc đó vượt ra khỏi khả năng của chúngta, và vì thế cũng rất khó hoặc không thể nào đánh giá họ được. Chúng ta chỉ cóthể dựa vào sự bén nhạy của lòng mình để ngưỡng mộ họ mà thôi.
19/07/2010(Xem: 8245)
Đất nước ta có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, Phật giáo Viẹt Nam có bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm hoằng pháp độ sanh. Kể từ ngày du nhập đến nay, với tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, Đạo Phật đã thực sự hoà nhập cùng với đà phát triển của đất nước và dân tộc. Trải qua bao cuộc biến thiên, Phật Giáo Việt Nam cũng thăng trầm theo những thời kỳ thịnh suy của dân tộc, nhưng không vì thế mà việc hướng dẫn các giới Phật tử tại gia bị lãng quên.
17/07/2010(Xem: 9693)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.
01/07/2010(Xem: 16368)
Ở làng quê Việt Nam ngày xưa, khi làm mùa vụ, người nông dân có thể nhờ vài người trong thôn xóm đến phụ giúp mà không phải trả tiền. Chỉ cần đến phiên bên kia làm mùa vụ, hay sửa sang nhà cửa, hoặc bất cứ công việc nặng nhọc nào đó, thì bên này sẽ qua phụ giúp lại. Cái đó gọi là vần công. Cách thức này thật hay.
25/06/2010(Xem: 10494)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
17/06/2010(Xem: 9476)
Gần90 phần trăm dân tộc Miến đều theo Phật Giáo. Giữa khung cảnh xanh tươicủa đất Miến, người ta thấy vươn lên từ các đỉnh đồi dọc theo bờ sông hay trên thung lũng những ngôi chùa màu trắng. Ðời sống xã hội Miến hoàntoàn xây dựng trên nền tảng Phật Giáo. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã thấm nhuần sâu xa khắp mọi tâm hồn dân Miến. Trong xã hội tăng già hay Phongyis chiếm một địa vị cao quý, quan trọng. Ảnh hưởng của họ chi phốikhắp các từng lớp dân chúng. Họ tham dự vào hết thảy mọi công tác từ thiện. Mỗi thôn xóm đều có một ngôi chùa gọi là Phong yikyaung để giúp đỡ, phát triển Phật sự trong vùng.
02/06/2010(Xem: 9606)
Một người bề ngoài trông có vẽ khỏe mạnh với vóc dáng hấp dẫn , diện mạo phương phi nhưng nếu trong lòng có điều phiền muộn , bất ổn về tâm lý thì không thể xem là có sức khỏe toàn diện . Và yếu tố tâm lý luôn luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì , bảo vệ sức khỏe .
01/06/2010(Xem: 7255)
Phóng sinh bắt nguồn từ kinh Phật Đại Thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, truyền sang Nhật Bản và các nước láng giềng Triều Tiên, Việt Nam. Hoạt động phóng sinh dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh, và quan niệm nhân quả của sinh tử luân hồi. Nếu vừa giữ giới sát, lại vừa phóng sinh thì công đức gấp bội.Những tỷ dụ kinh nghiệm cảm ứng về phóng sinh, sách sử nói đến rất nhiều.
27/05/2010(Xem: 11417)
Có người nói ngủ chiếm một phần ba cuộc đời, uổng phí quá! Đừng ngủ thì lợi hơn! Nhưng lợi đâu không thấy chỉ thấy mất ngủ vài ba đêm thì đầu óc không sảng khỏai để làm việc, năng suất thấp, mất ngủ lâu dài hơn thì dẫn tới bệnh tâm thần và cuối cùng thì thay vì cuôc sống dài ra lại bị rút ngắn đi một cách đáng tiếc!
15/05/2010(Xem: 8456)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương - Thích Thanh Cát, Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Đại-định để hàng phục mọi ma chướng.” Suy nghĩ xong, Đức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Đức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]