Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản Mạn Về Lễ Vu Lan

26/08/202313:36(Xem: 2626)
Tản Mạn Về Lễ Vu Lan
TẢN MẠN VỀ LỄ VU LAN

Vu-lan-001

 

Ngày lại qua ngày, bình minh lên rực rỡ, hoàng hôn xuống đìu hiu. Nước vẫn chảy về đông nhưng vòng tuần hoàn chưa bao giờ gián đoạn. Đời vẫn sanh diệt liên lỉ, dù có thô tháo bạo liệt hay dịu êm lặng lẽ. Ta vẫn còn nơi này nhưng đang trên đường đi đến điểm cuối của vòng đời. Đến để rồi đi, đi để mà đến, dòng sanh tử luân hồi chưa từng dừng dù chỉ một sát na. Cái dòng tâm thức luôn dịch chuyển trong ba cõi sáu đường, chỉ một số vô cùng ít ỏi chứng thánh quả thì mới có thể hết trôi lăn. Cái xác thân vật lý này cũng giống như tất cả các loại vật chất khác, nó không hề mất đi, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Hiện giờ thì nó còn là thân thể nhân dáng người nhưng một khi hơi thở vào ra dứt thì nó lại trở về với đất, nước, gió, lửa trong đất trời.

Không gian vô hạn độ, thời gian vô thủy vô chung, trên cái dòng thời gian miên viễn ấy con người chế ra ngày, giờ, tháng, năm, mùa màng… làm cột mốc. Trên dòng thời gian ấy, con người có những lễ hội để vinh danh, tưởng nhớ hay kỷ niệm những sự kiện trong đời sống của mình. Thiên hạ có vô số những ngày hội, mỗi chủng tộc, mỗi quốc gia, thậm chí mỗi địa phương đều có những lễ hội riêng của mình. Cộng đồng Phật giáo cũng không ngoại lệ, ngoài những lễ hội chung như ngày Phật đản sanh, thành đạo, niết bàn… Cộng đồng Phật giáo bắc truyền còn có ngày lễ hội riêng như lễ Vu Lan chẳng hạn. Điều này phản ảnh quan điểm, cách nhìn nhận khác biệt của hai dòng truyền.

Lễ Vu Lan là một lễ hội lớn và quan trọng trong Phật giáo bắc truyền, lễ Vu Lan còn gọi là lễ hội hiếu, bắt nguồn từ điển tích ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ. Tất cả những dân tộc và những quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu, chịu ảnh hưởng Nho giáo đều rất coi trọng chữ hiếu, theo Nho giáo thì hiếu là phải phụng dưỡng cha mẹ, vâng lời cha mẹ, lấy vợ lấy chồng, sanh con đẻ cái, nối dõi tông đường… thậm chí cực đoan đến độ: “Phụ xử tử vong/ tử bất vong bất hiếu” hoặc như: “Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại”. Hiếu của Nho giáo rất lệch lạch, khiếm khuyết chứ không trọn vẹn như chữ hiếu trong nhà Phật. Với Phật giáo thì hiếu không chỉ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, hiếu thì thuận thảo những điều đúng chứ không phải mù quáng nghe theo những lời quấy quá. Hiếu không chỉ chăm lo vật chất mà còn quan tâm đến tinh thần, hướng cha mẹ về Phật pháp, hướng cha mẹ theo chánh pháp, tạo điều kiện cho cha mẹ thực hành Phật pháp. Hiếu với cha mẹ không chỉ lo cho hiện tiền mà còn lo cho việc tương lai. Chuyện ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ là một điển hình vậy.

Ngày lễ Vu Lan, các chùa bắc tông tưng bừng rộn ràng mừngng hội hiếu, cờ ngũ sắc phất phới bay trong gió, hương trầm thơm ngan ngát, hoa quả tươi bày biện đẹp mắt. Phật tử về chùa  lễ Phật dâng hương thì thầm khấn nguyện, lòng hướng về ba ngôi tam bảo, cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền mạnh khỏe, an lạc; cầu nguyện cho ông bà tổ tiên siêu sanh tịnh độ. Cầu Phật, bồ tát gia hộ cho tất cả chúng sanh. Cầu nguyện là tấm lòng, tuy nhiên cầu nguyện suông thì không thể thành, cầu nguyện phải thực hành những điều Phật dạy. Cầu nguyện còn phụ thuộc vào phước báo và nhân duyên…

Có một số người lên tiếng bài bác lễ Vu Lan, cho là văn hóa Tàu, trong phật giáo không có lễ này... Các vị ấy quên rằng Phật giáo có tính khế cơ khế lý, truyền đến đâu thì kết hợp với văn hóa, truyền thống bản địa ở đấy. Thời đức Phật còn tại thế thì không có lễ Vu Lan, điều ấy đúng nhưng Phật giáo cũng như tất cả mọi sự việc ở thế gian này, luôn luôn biến thiên vì thế gian này vốn vô thường. Khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa thì sau đó mới có lễ Vu Lan, tuy nhiên căn bản vẫn là nhân sinh quan của Phật giáo. Lễ vu Lan đầy ý nghĩa nhân văn như thế, thấm đượm từ bi, hỷ xả và tinh thần giải thoát. Lễ Vu Lan đề cao chữ hiếu, đem Phật pháp đến với thế nhân.

Địa ngục ở đâu? Địa ngục, hỏa ngục, hàn ngục, biên địa địa ngục… địa ngục cũng có vô số tên gọi khác nhau. Về sự thì quả thật có địa ngục, về lý thì địa ngục ngay chính trong tâm ta, bởi vì cũng từ tâm địa mà ra. Bà mẹ của ngài Mục Kiền Liên bưng bát cơm lên ăn thì bát cơm hóa lửa, đó là cảnh giới của địa ngục, đây là mặt sự, còn về mặt lý thì đó chính là cái tâm tham lam, keo kiệt, bỏn sẻn vậy! Ngài Mục Kiền Liên và thần lực thập phương tăng chú nguyện để bà được sanh thiên, điều này có trái với kinh Phật dạy không? Kinh suy niệm về nghiệp viết: “Không có ai có thể làm cho mình thanh tịnh hay uế trược, thanh tịnh hay uế trược là chính do mình”. “Phước hay họa cũng tự mình tạo nên” và vô số những dạy về nhân quả, về những tấm gương thánh nhân phải gánh lấy hậu quả khi cái quả chín mùi! Ngay cả dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly tàn sát mà đức Phật cũng không thể cứu được kia mà! Thật ra thì chẳng phải thập phương tăng dùng thần lực đưa bà mẹ ngài Mục Kiền Liên lên cõi trời mà chính là dùng thần lực để thức tỉnh tâm bà, khiến bà chuyển đổi tâm niệm, một khi tâm niệm chuyển đổi thì hỏa ngục hóa hồng liên. Giáo pháp nhà Phật đã dạy: “Chánh báo tùy theo y báo mà chuyển” là vậy! Ngày hôm ấy không chỉ mỗi bà mẹ Mục Kiền Liên mà vô số những tội nhân cùng cảnh ngộ, cùng duyên phần phước phận được giải thoát theo.

Ngài Mục Kiền Liên là một đại đệ tử của đức Phật, ngài là đệ nhất thần thông, là tấm gương hiếu thảo. Người ta thường nói đức Phật có mười vị đệ tử nổi tiếng, mỗi người đại diện cho một mặt nào đó, ví dụ như ngài Xá Lợi Phất thì là trí huệ đệ nhật, ngài Kiều Trần Như thì là khai ngộ đệ nhất… Thật ra thì các ngài đồng năng, đồng giải, đồng hành… không phải ngài Xá Lợi Phất đệ nhất về trí huệ thì các ngài kia trí huệ không bằng! Tất cả đồng nhau, mỗi người đại biểu cho một phương diện.

Ngày lễ Vu Lan hôm nay cũng như những ngày lễ Vu Lan của ngàn năm trước. Những người con Phật lòng xốn xang lay động khi tưởng nhớ Phật, người đã đến thế gian này để khai mở con đường giải thoát cho loài người. Lòng thương nhớ cha mẹ hiện tiền, nhớ ông bà tổ tiên quá vãng… Nếu như ai được sống gần gũi cha mẹ, có cơ hội phụng dưỡng cha mẹ đó là cái phước lớn, là cơ hội để thực hành hiếu đễ, huân tập công phu. Hãy tận dụng cơ hội, hãy phụng dưỡng cha mẹ, hãy tạo điều kiện cho cha mẹ già sống vui vẻ trong lúc cuối đời, hãy tạo điều kiện để cha mẹ được về chùa lễ Phật. Những người con sống xa cha mẹ âu cũng là nhân duyên sâu xa nào đó trong quá khứ, nhớ thương cha mẹ mà không được gần gũi, một cái ôm, một cái cầm tay cũng không được thì nói gì đến dâng ly nước hay bát cơm. Thương nhớ cha mẹ lắm nhưng vì khoảng cách địa lý xa diệu vợi thì biết làm gì hơn ngoài việc lên chùa lễ Phật dâng hương và cầu nguyện. Những người con sống xa cha mẹ chỉ tiếc mình là thân bị thịt không có thần thông để vượt qua khoảng cách trùng dương! Nhớ thương cha mẹ vốn thường trực nhưng mỗi khi lễ Vu Lan về thì lòng lại nao nao, dường như đó là cộng hưởng của sóng âm trong trời đất với sóng lòng.

Vườn chùa ngày lễ Vu Lan đẹp và rộn ràng, những tà áo dài thướt tha, những người con Phật ăn mặc nghiêm trang, những bậc cha mẹ già được con cháu chở đến chùa lễ Phật, những em thiếu nhi như những bông hoa múa điệu dâng hương cúng dường...Nhiêu đó đủ cho lòng người thơ thới an lạc, thiên địa quỷ thần hoan hỷ, trời đất phong quang. Bức tranh ngài Địa Tạng tay cầm châu, tay cầm gậy vàng vừa oai nghiêm vừa hiền từ chi lạ. Ngài là bậc giáo chủ cõi U Minh, lời thệ nguyện của ngài là lời thề vô tiền khoáng hậu, chưa từng thấy bất cứ ở đâu, chưa từng có ở trong những tôn giáo đã xuất hiện trên thế gian này: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề”. Thật chẳng có ngôn từ nào của con người có thể tán thán hay nghĩ bàn được, chỉ có cách duy nhất là mượn lời kinh để nói: “Bất khả thuyết, bất khả tư nghị”.

Ngày lễ Vu Lan, những con người xa quê, xa cha mẹ lòng buồn và thương nhớ. Biết cha mẹ già thân thể suy hao từng ngày, những cơn đau nhức đang hành… dù biết thời gian của cha mẹ già không còn nhiều nhưng cơ hội gần gũi, cơ hội về không có bao nhiêu, đó cũng chính là nỗi khổ “ái biệt ly khổ” mà đức Thế Tôn đã dạy chúng ta. Tất cả những gì mình đang thọ nhận hay bị nhận là cái quả vốn có nhân từ sâu xa mà mình không có khả năng biết. Còn tất cả những gì mình đang làm (tam nghiệp) hôm nay thì sẽ cho cái quả  mai sau. Sống xa cha mẹ âu cũng là cái quả, là nghiệp lực đã thành, một khi quả đã chín mùi, nghiệp đã thành thì không thể thay đổi, dù có thần thông như Phật cũng đành chịu thôi!

Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ngày hội hiếu lên chùa lễ Phật, cầu cho cha mẹ sống khỏe và vui với con cháu, cầu cho mọi người an lạc, cầu cho quốc độ mình đang sống hòa bình, cầu cho cố quận mình sớm được dân chủ, tự do và nhân quyền được tôn trọng.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, mùa Vu Lan 2023

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2021(Xem: 4774)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6215)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5352)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12195)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5379)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 4963)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5109)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4460)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4141)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4752)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]