Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Muôn Đời Thanh Tân

26/08/202313:33(Xem: 2600)
Muôn Đời Thanh Tân

MUÔN ĐỜI THANH TÂN
Vu-lan-004

 

Khí trời còn nóng lắm nhưng không khí mùa hội hiếu đã chớm sang, âm hưởng tháng bảy đã vọng trong hồn. Tự dưng y nghĩ đến chùa chiền mà lòng lay động, dường như trong tâm có lời thì thầm: “Thế là lại đến mùa báo hiếu!”. Y vốn nhiễu sự mà, lòng vừa nghĩ thế thì thằng Ý chọt liền:

- Báo hiếu mọi ngày, ngày nào chẳng là ngày hiếu, hà cớ gì phải đợi đến tháng bảy mới báo hiếu?

Y phì cười, thằng Ý nói cũng có lý, mặc dù biết nó lý sự nhưng y cũng minh bạch đôi lời với nó. Y vẫn nhớ kỹ lời thầy: “Không tranh cãi dù là ở đời, người học Phật càng không nên tranh cãi”. Y nhân cơ hội này giải thích một tí cho thằng Ý và những người  nhiều lý sự nhưng chưa thông sự lý, thiếu hiểu biết, hoặc giả là bản tánh thích cà khịa, thích gây sự. Y lựa lời nhỏ nhẹ, ôn tồn nhưng rành mạch:

- Này Ý! Chú em nói cũng có lý lắm, báo hiếu cả đời, báo hiếu muôn đời, báo hiếu mọi ngày chứ nào phải đợi đến tháng bảy, nào phải chỉ một mùa. Chú em cần phải biết rằng Vu Lan tháng bảy là lễ hội hiếu trong nhà Phật, là xuất phát từ tích ngài Mục Kiền Liên độ mẹ. Lễ Vu Lan để tưởng nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã quá vãng; hồi hướng công đức cho tiền nhân; chúc sinh cho cha mẹ hiện tiền. Ngày lễ Vu Lan cũng là cách để xiển dương Phật pháp, đề cao chữ hiếu, khích lệ con người ta sống hiếu đạo, làm gương cho đời.

Thằng Ý lại thắc mắc:

- Cùng là đạo Phật, cớ sao chùa chiền Nam tông không có lễ này?

- Chú em cần phải biết rằng Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông đều cùng căn bản gốc: Tứ diệu đế, bát chánh đạo, thất bồ đề phần, ba mươi bảy phẩm trợ đạo… tuy nhiên về hình tướng và hình thức có khác nhau. Đạo Phật truyền đến đâu thì kết hợp với văn hóa bản địa, tập tánh cư dân, truyền thống địa đương mà hình thành nên những sắc thái khác nhau. Vì vậy mà Phạt giáo của hai truyền thống có những điểm khác nhau.

- Thế Phật giáo Nam tông không có lễ Vu Lan thì không có hiếu à?

Y không nhịn được cười vì cái lối lý sự trẻ con của thằng Ý, tuy nhiên y không dám cười to sợ nó mích lòng. Y bảo:

- Có chứ sao lại không, đạo Phật là hiếu đạo, người con Phật nào mà không hiếu! tuy hiên cách thể hiện và hành động khác nhau. Truyền thống hiếu theo cách của Phật giáo Nam tông còn hay hơn nữa cơ đấy! Thanh, thiếu niên trưởng thành thường vào chùa xuất gia tu học vài năm để báo hiếu cha mẹ, nếu người nào đủ bản lãnh thì xuất gia luôn. Ý thấy chưa? Cách này còn triệt để hơn, hiệu quả hơn, tràn đầy ý nghĩa. Mỗi dòng truyền thừa có phương cách sinh hoạt khác nhau, chúng ta có thể học hỏi để bổ sung cho nhau chứ chẳng có chi mâu thuẫn cả, tất cả chung quy cũng để hoằng pháp, hoằng thuận chúng sanh. Dẫn người vào đạo, đưa người đi đến thoát khổ và giải thoát.

Thằng Ý xem ra cũng thấm đôi chút nhưng nó vẫn vặn vẹo:

- Đạo Phật là đạo nhân quả, thế ngài Mục Kiền Liên và chư tăng hợp lực đưa bà mẹ Mục Kiền Liên từ địa ngục sanh thiên liệu có trái nhân quả chăng? Vả lại đạo Phật vẫn nói không có thần thông nào cứu được khi quả đã chín muồi, Kinh Suy niệm về nghiệp cũng viết rõ ràng: “ Không có ai có thể làm cho người khác thăng hay đọa, chỉ tự chính bản thân người đó”. Vậy việc cứu mẹ của tích Mục Kiền Liên có trái nhân quả không?

Y ngẫm nghĩ một chút, lời thằng Ý cũng có chỗ để suy gẫm chứ không phải hoàn toàn lý sự. Trong Phật giáo Bắc truyền có nhiều pha trộn thêm bớt của các tổ sư bên Tàu, có nhiều điểm vô lý, chính điều này đã làm mê muội không ít người sơ cơ. Y thân mật nói với Ý:

- Đúng là như thế! tuy nhiên  tích Mục Kiên Liên cũng chẳng có sai, có lẽ nhiều người hiểu sai hoặc là không hiểu cái ý nghĩa của tích truyện. Công đức và tâm thành của ngài Mục Kiền Liên, sự chú nguyện của mười phương tăng đánh thức tâm thức của bà mẹ, khiến bà chuyển đổi tâm niệm, nếu tâm niệm của bà không chuyển thì không có ai có thể cứu bà thoát khỏi địa ngục. Khi cái tâm bỏn sẻn thì bát cơm hóa lửa, khi cái tâm đã chuyển thì hỏa ngục hóa hồng liên. Đó chẳng phải “tâm tưởng sự thành” sao, tất cả không ngoài một niệm tâm. “Thập phương hư không bất ly đương xứ/ cổ kim tam thế bất ly đương niệm”. Sơn hà đại địa, con người, sinh vật, cảnh giới… không ra ngoài một niệm tâm.

Thằng Ý đã xìu lắm rồi, nó nghe và thấm. Tâm niệm của nó cũng đã chuyển so với lúc ban đầu, tuy nhiên nó chưa thể một lúc mà thông được, vả lại bản tánh vốn cang cường. Nó thắc mắc:

- Tâm là gì mà ghê thế? Sao mình và mọi người đều luôn nghĩ muốn giàu sang sung sướng, thành đạt, xinh đẹp, không bệnh tật, thành công… mà  chẳng mấy ai thành tựu được?

Bấy giờ thì y cười to chứ không thể nào kìm chế được nữa, thằng Ý quả là ấu trĩ ngây thơ đến ngờ nghệch.

- Đâu phải nghĩ suông mà thành, phải có nhân thì mới có quả, phải đủ duyên thì mới thành, Muốn được giàu sang, xinh đẹp, thành công… thì phải tu phước, phải bố thí trì, giới, nhẫn nhục, phải học hành đàng hoàng để có nghề nghiệp, có năng lực làm việc… và cần phải có một thời gian dài, không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Ngài Mục Kiên Liên muốn cứu được mẹ thì cũng nhờ công đức tu hành từ vô lượng kiếp, rồi còn nhờ cái duyên thần lực của thập phương tăng, nhờ chú nguyện của mười phương Phật mà cái  tâm niệm ấy mới thành tựu!

- Lễ Vu Lan trong tháng bảy là lễ hiếu, lẽ ra phải hoan hỷ cớ sao người ta cứ bảo tháng bảy là tháng cô hồn? Dân chúng sợ tháng bảy xui xẻo vì cô hồn nên mọi người làm gì cũng kiêng kỵ và tránh né dữ lắm.

- Chú em lại lầm lẫn nữa rồi, mà nào phải chỉ có chú lầm, qúa nhiều người tà kiến sai vạy. Quan niệm tháng cô hồn là quan niệm dân gian, chúng ta chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu. Người Tàu cho là tháng bảy cửa ngục mở nên cô hồn ngạ quỷ lên dương gian, đó không phải Phật giáo! Phật giáo là đạo của trí huệ không chấp nhận sự mê tín. Phật giáo Bắc truyền bị tiên nhiễm bởi văn hóa Tàu, đạo giáo Tàu nên quần chúng mới có quan niệm sai lầm, hiểu biết lệch lạc như vậy!

Đến đây thì thằng Ý dường như cạn ý và nó cũng nhìn nhận ra những ý nghĩ sai lệch của nó. Nó không lý sự nữa, bấy giờ thì nó thủ thỉ tâm sự:

- Vậy rằm tháng bảy này mình nên phóng sanh, tụng kinh để hồi hướng công đức cho ông bà quá vãng, chúc sinh cho cha mẹ hiện tiền hén!

- Ừ, nhất định vậy rồi, không chỉ rằm tháng bảy, chúng ta sẽ làm bất cứ rằm nào hay bất cứ lúc nào mà chúng ta có thể, không nhất thiết phải đợi đến rằm tháng bảy mới làm. Các chùa làm lễ trong rằm tháng bảy vì là truyền thống, là cách để biểu diễn cho quần chúng thấy biết mà noi theo,

Thằng Ý đặt vấn đề:

- Vậy anh hãy viết chút gì đó về lễ Vu Lan nhé! Viết để tưởng nhớ, viết để chia sẻ cùng mọi người.

- Tất nhiên rồi!

Y thấy vui vui, cuối cùng thì thằng Ý tâm phục khẩu phục vì điều lành, vì thiện lương. Lòng y thấy phấn khởi, tâm phấn chấn khí thế bốc cao và sẵn sàng ngồi vào bàn viết ngay. Y nghĩ bụng mình sẽ viết văn hay làm thơ để tán thán công đức Phật, pháp, tăng để cúng dường; cứ xem như chút tâm hương của lòng thành dâng lên tam bảo. Chợt thằng Thân cựa mình, nó vốn chây ỳ và ù lì, chỉ thích ăn uống và nằm chình ình ra đấy. Nó chẳng muốn hoạt động chi cả, chỉ muốn hưởng thụ mà thôi. Nó thường chống đối những việc phải tốn công sức và tâm ý như: tụng kinh, ngồi thiền, làm công quả hay những việc chung...Dĩ nhiên nó chỉ muốn nằm xem phim chứ chẳng bao giờ hưởng ứng việc ngồi hàng giờ suy nghĩ viết lách. Thằng Thân càm ràm:

- Khéo vẽ bày nhiều chuyện! Sách vở đầy ra cả đấy, chuyện Vu Lan cũ rích có gì mới đâu để mà viết! Viết chi cho mệt xác, thời gian để viết ta cứ hưởng thụ chơi bời chẳng sướng hơn sao? Đời ngắn lắm, đừng bỏ phí!

Thằng Tâm vốn ngấm ngầm quan sát từ khi thằng Ý cà khịa cho đến tận lúc thằng Thân kêu ca, bấy giờ thằng Tâm phán:

- Đời ngắn ngủi lắm, vì vậy càng phải viết! Hổng viết thì mai kia hối tiếc vì chẳng kịp viết! Đúng là Lễ Vu Lan có tự bao đời rồi nhưng chữ hiếu thì vô cùng tận. Đời nối tiếp đời, sanh tử bất tận, đời sống muôn màu, dòng đời liên lỉ từ ngàn xưa đến nay vẫn vậy có gì mới đâu, vẫn hít vào thở ra, vẫn tạo nghiệp ác, nghiệp thiện, vẫn sanh già bệnh chết, vẫn thăng đọa triền miên. Tất cả cũ kỹ vô cùng nhưng tất cả cũng mới mẻ như thường, muôn đời qua đã thế, muôn đời sau cũng thế, muôn đời vẫn cứ thanh tân! Có vậy thì cuộc sống này mới có ý nghĩa để mà sống, mới hay cũ cũng chính tại chúng ta. Sơn hà đại địa này vốn cũ thế mà cũng mới vô cùng. Tâm niệm cũ kỹ nhưng vẫn mới trong từng sát na.

Thằng Thân ì ạch bước tới, vẻ mặt cau có khó chịu. Nó lấy tay chỉ vào giá sách:

- Kinh sách chất như núi, phim ảnh cả kho, viết chi nữa cho mệt, cứ nằm dài ra mà hưởng đi!

- Đúng như thế! Tài liệu chất như núi nhưng mỗi người là một bản thể khác nhau, cách nghĩ khác nhau, cách thể hiện khác nhau, mỗi thời đại có một cách trình bày khác nhau… Vả lại trong cái kho ấy và trong dân gian có không ít sai lệch tà vạy vì vậy cần phải viết để chấn tác, để cổ vũ cái hay cái đẹp. Viết để làm mới, tạo nét mới thêm hương sắc cho vườn hoa.

Thằng Thân đuối lý nên không nói gì nữa. Thằng Tưởng nó lêu lổng từ đâu đâu không biết, bất chợt quay về và xía vô:

- Thời đại công nghệ cao, kỹ thuật số, mạng Net phủ khắp nơi… Con người ta giờ chỉ xem phim ảnh, tiktok, face Book, Twitter, Instagram… Chẳng có ai đọc nữa đâu! viết chi cho uổng công phí sức!

Đến đây thì y chùng xuống, lòng thấy buồn quá, đây là một sự thật không thể tránh né, một sự thật phải chấp nhận và phải thích nghi theo thì mới sống được. Đây cũng là lẽ thường tình trong thế giới vô thường. Mọi vật, mọi việc thay đổi liên miên, thay đổi không ngừng dù chỉ là trong phút giây. Cái vòng quay của tiến trình thành – trụ – hoại – diệt chẳng chừa bất cứ ai hay bất cứ sự việc gì.  Điều thằng Tưởng vừa nói cũng chính là tâm sự của y và bao nhiêu người cầm bút khác. Đừng nói là sách vở trong đạo, ngay cả văn chương chữ nghĩa ngoài đời giờ cũng chẳng còn mấy ai đọc. Y phân vân chưa biết nói gì thì thằng Ý bênh vực cho y:

- Đành rằng là vậy! Tuy nhiên không phải tất cả mọi người, vẫn còn một bộ phận nhỏ độc giả tiếp tục đọc, say mê đọc, thiết tha với chữ nghĩa, yêu mến sách vở. Vả lại đã là con ong thì phải thụ phấn làm mật, là con tằmt hì phải nhả tơ. Viết không ai đọc vẫn viết, hơn nữa đây là việc cổ xúy cái đẹp cái hay, cái nhân văn. Ngoài đời thì góp hương hoa, trong đạo thì tạo phước đức cho người.

Thằng Thân bĩu môi:

- Phàm việc gì cũng phải nhắm đến kết quả, phải biết kết quả rõ ràng thì mới nên làm, còn như mơ hồ thì làm chi cho mệt xác!

Xưa nay thằng Thân vốn chỉ nghĩ đến cái lợi vì nó vốn tôn thờ chủ nghĩa vật chất. Nó thích hưởng thụ ngủ nghỉ, ăn chơi. Nó luôn luôn mong được ve vuốt nuông chìu. Nó lười biếng, ngại khó, không thích nhúc nhích, nhất là những việc mang tính chất tinh thần thì nó càng ghét. Chẳng mấy khi nó thuận  với thằng Ý hay thằng Tâm trong việc tác ý tu tập học hành hay làm việc ích lợi chung cho người, cho đời. Mỗi lần lên chùa nó cự nự gây khó dễ. Nó chỉ muốn đến nơi phồn hoa đô hội hoặc những chỗ ăn chơi, ngồi thiền thì nó kêu đau chân, mỏi lưng; tụng kinh nó tham mệt chỉ muốn di nằm, bởi vậy thằng Ý và thằng Tâm phải chống chọi với nó dữ lắm, đã vậy thằng Tưởng còn xúi giục thằng Thân làm những chuyện bậy bạ khiến cho nó thêm lười và càn quấy. Cũng không ít lần y nghe lời xúi của thằng Thân dẹp hết chuyện viết lách linh tinh để nằm dài xem phim cho sướng. Y cũng chìu thằng Thân và đã để cho nó sai khiến y nhiều việc lẽ ra không nên làm. Riêng việc viết bài cho hiếu hội Vu Lan sắp tới đây thì y quyết chí vượt qua sự chây lì của thằng Thân.

 

**

Mấy nay bận rộn quá, đi làm về là lăn ra ngủ, thằng Thân rên rỉ ca cẩm đủ điều. Nó muốn phải ngủ thêm nữa để bù những lúc đi làm trong khi ấy thì gian đã cận kề ngày rằm rồi, không khí mùa hiếu hội đã tràn ngập khắp các chùa. Mọi người về chùa làm công quả nấu nướng, dọn dẹp, trang hoàng cờ xí, chưng hoa quả… Y quyết định cuối tuần này phải đứng về phe thằng Tâm và thằng Ý để viết cho xong một truyện ngắn hay một bài tản văn về đề tài Vu Lan hiếu hội, trước cúng dường thập phương thường trụ tam bảo, sau dâng cho đời, cho những ai còn yêu thích chuyện chữ nghĩa văn chương. Thằng Ý và thằng Tâm hoan hỷ vô cùng, nó reo lên vui mừng vì cuối cùng y cũng đứng về phe nó, mặc cho thằng Thân và thằng Tưởng ra sức gây khó dễ và phàn nàn.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 0723

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2010(Xem: 10328)
Từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, đạo Phật được truyền bá một cách sâu rộng khắp trên lưu vực sông Hằng cũng như qua các thị trấn và những quốc gia thời bấy giờ của xã hội Ấn Độ, quê hương của Phật. Phật pháp được tuyên thuyết bởi Đức Phật, cũng như các hàng Thánh chúng đến từng nhà, từng người, từng cộng đồng trong xã hội. Phật pháp đã tạo sự bình an cho con người, đã xây dựng một nếp sống đạo đức, lễ nghi hướng thượng cho tất cả.
21/10/2010(Xem: 7140)
Ngày 8 tháng 12 năm 2003 tại Chùa Than Hsiang, Peang, Malaysia trong Khóa Nhập thất Trì tụng 100 Triệu Thần chú Sáu-Âm 1. Là Phật tử, chúng ta thực hành để làm lợi lạc cho bản thân và những người khác. Vì thế, chúng ta thực hành trì tụng thần chú Sáu-Âm (Om Mani Padme Hung). Tuy nhiên, khi chúng ta ăn thịt – thịt gà, thịt heo, cá hay trứng trong đời sống hàng ngày của ta, chúng ta đang tạo vô số nghiệp xấu.
21/10/2010(Xem: 8454)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
21/10/2010(Xem: 6975)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
21/10/2010(Xem: 10069)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam và hiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo được các vua chúa ủng hộ, mà cũng có lúc bị một số người bài xích. Nhưng chung cục, Phật giáo vẫn chịu đựng được những thử thách ấy để mà tồn tại. Như thế, chứng tỏ Phật giáo phải tiềm tàng nhiều khả tính, mà một trong những khả tính có sức cảm hóa con người mạnh mẽ nhất, đó là đức tính từ bi bao dung của đạo Phật.
21/10/2010(Xem: 7424)
Khi vừa mới một tuổi thì Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Mathứ XIII xác nhận là vị hóa thân (toulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097)một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135).Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, học tại các tu viện đạihọc danh tiếng nhất ở Tây tạng, tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Ngài rời Tây Tạngvượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó thì lưu trú tại Pháp từ năm 1960. Hiện nayDagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu.
20/10/2010(Xem: 5957)
Những điều nhỏ nhặt đang ghi nhớ
20/10/2010(Xem: 6441)
Brisbane, Australia - 11/06/2015, Ủy ban Công giáo Roman tổ chức buổi Cầu nguyện hòa bình thế giới tại Thành phố Brisbane, Queensland, Australia. Đáp lời mời đến tham dự với sự hiện diện của đức Đức Đạt Lai Lạt Ma, cùng chư tôn giáo phẩm Tăng già Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nguyên thủy, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Bahai . . .Phía Chính quyền địa phương có sự hiện diện của Ông Paul de Jersey, Thống đốc bang Queensland, Bà Shannon Fentiman, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đa văn hóa, Ông Ian Stewart, Ủy viên cảnh sát Queensland, Australia và hơn 800 đại biểu các lĩnh vực xã hội tham dự.
20/10/2010(Xem: 6808)
Một thưở đó, mây hỏi cùng cỏ lá gió chướng mùa, đời vắng lạc về đâu bàn tay mỏng, soi mòn tâm mưa nắng thu réo nguồn, lá cỏ có bâng khuâng? lối chiều nghiêng, khép lại bóng ưu phiền sờn tà áo, bụi đời trên vai cỏ có gì đâu, mảnh trăng vô lượng kiếp một giọt trăng, em- hơi thở vô cùng
19/10/2010(Xem: 8045)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]