Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô thường cũng là Niết bàn tịch diệt

04/08/202208:25(Xem: 5622)
Vô thường cũng là Niết bàn tịch diệt

Buddha-313
Vô thường cũng là Niết bàn tịch diệt

 

Nguyên Giác

 

Thoạt đọc qua, có vẻ như có gì hơi sai sai khi đặt nhan đề bài này là “Vô thường cũng là Niết bàn tịch diệt”… Bởi vì, vô thường được hiểu là sinh diệt tương tục, sinh diệt bất tận. Trong khi đó, tịch diệt là Niết bàn với thể tánh không tịch, vắng lặng – được hiểu như dường nghịch nhau, vì trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã dạy: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (sinh diệt diệt rồi, [Niết bàn] tịch diệt là vui). Bài viết này sẽ dò tìm một vài cách thực dụng để nhìn thẳng vào vô thường và nhận ra Niết Bàn. Với các sai sót có thể có, xin được trọn lòng sám hối.

 

Thắc mắc đó đã được Lục Tổ Huệ Năng trong Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải (Phẩm 7 Cơ duyên) giải thích cho Tăng Chí Đạo, qua bản dịch của Thầy Thanh Từ: “Ông là Thích tử sao lại tập  theo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận nghị về pháp Tối thượng thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài Sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sanh diệt để cầu tịch diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn về sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Vui này không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng sanh. Đây là ông chê Phật hủy pháp.” (1)

 

Các Phật tử tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng thường nhớ một câu dễ gây thắc mắc: “Các pháp từ bản-lai, tướng thường tự vắng-lặng…” (Bản dịch của Thầy Trí Tịnh). Bản tiếng Hán là “Chư pháp tòng bản lai, thường tự tịch diệt tướng.” Tại sao trong tất cả những xoay vần của vô thường, của sáng trưa chiều tối xanh đỏ tím vàng, của liên tục thay đổi giữa vui cười và khóc hận… lại ẩn tàng cõi tịch diệt hạnh phúc vô cùng tận của Niết Bàn?

 

Trong Phật Quang Đại Từ Điển, bản dịch của Thầy Quảng Độ, nơi mục từ “Chư pháp tịch diệt tướng” được giải thích như sau: “CHƯ PHÁP TỊCH DIÊT TƯỚNG. Nói đủ là Chư pháp tòng bản lai thường tự tịch diệt tướng. Có nghĩa là thể tính nguyên bản của các pháp, lời nói không thể diễn tả hết được, cũng chẳng phải suy tư phân biệt mà có thể biết được. Thể tính của các pháp vốn trong sạch vắng lặng thường trụ bất biến, tất cả tướng sinh tử phiền não sai biệt xưa nay vốn không tồn tại, đều là những sự tướng làm nhân, làm duyên cho nhau mà hiện khởi trong thế giới hiện tượng, cái này sinh thì cái kia diệt, chúng sinh thấy thế vọng chấp là thật – nhưng xét đến ngọn nguồn, thì chúng chẳng có tự (chủ) tính, cũng chẳng chân thực, vốn thanh tịnh vắng lặng, không suy tư nào có thể phân biệt, không lời nói nào có thể tả hết. [X. kinh Pháp hoa Q.1 phẩm Phương tiện, Q.3 phẩm Dược thảo dụ].”

 

Trong Tạp A Hàm, Kinh SA 747, Đức Phật dạy về pháp quán tưởng vô thường. Khi quán sát các pháp vô thường, tâm phải câu hữu (tức là, đồng thời tỉnh thức với) để nương từ bỏ, để nương xa lìa, để không khởi tâm tham dục, để “y diệt” (nương theo pháp diệt) và rồi buông xả tất cả. Bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ như sau:

 

Nếu Tỳ-kheo tu Vô thường tưởng, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn. Thế nào là Tỳ-kheo tu Vô thường tưởng, tu tập nhiều, sẽ được quả lớn, phước lợi lớn? Tỳ-kheo tâm câu hữu với Vô thường tưởng, tu Niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả,… cho đến tu Xả giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt hướng đến xả.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành. Như Vô thường tưởng, cũng vậy hai mươi kinh: Vô thường khổ tưởng, Khổ vô ngã tưởng, Quán thực tưởng, Tất cả thế gian không khả lạc tưởng, Tận tưởng, Đoạn tưởng, Vô dục tưởng, Diệt tưởng, Hoạn tưởng, Tư tưởng, Bất tịnh tưởng, Thanh ứ tưởng, Nùng nội tưởng, Phùng trướng tưởng, Hoại tưởng, Thực bất tận tưởng, Huyết tưởng, Phân ly tưởng, Cốt tưởng, Không tưởng, mỗi một kinh cũng nói như trên.” (ngưng trích) (2)

 

Xin chú ý đoạn thứ nhì nêu trên, có 20 Kinh khác tương đương, chỉ ra 20 pháp khác (nhưng cũng có tâm câu hữu với niệm giác phần, với từ bỏ, với viễn ly…) cũng có công năng như quán tưởng vô thường. Trong đó có những pháp quen thuộc, như Vô thường khổ tưởng (quán rằng vô thường là khổ), Bất tịnh tưởng (quán rằng các pháp bất tịnh, thân bất tịnh…), Phùng trướng tưởng (quán xác chết phùng trướng), Cốt tưởng (quán xương trắng)…

Nơi đây, chúng ta sẽ chú trọng về Diệt tưởng (diệt đây là diệt trừ, diện tận, đoạn diệt, tịch diệt). Hoàn toàn không có ý nói rằng kinh nào hay nhiều, hoặc hay ít ra sao, vì thực tế kinh nào trong nhóm 20 kinh dẫn trên cũng dùng làm phương tiện giải thoát được. Nhưng chú trọng về Diệt tưởng sẽ nêu bật lên ý nơi đầu bài: “sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (sinh diệt vô thường đã diệt rồi, Niết bàn an lạc hiện ra).

 

Pháp tu Đoạn diệt được Đức Phật gọi là “pháp vắn tắt” – nghĩa là, không tu loanh quanh, không tu dài dòng, chỉ tu pháp này là đủ, không cần học thêm gì nhiều. Trong Tạng Pali, Kinh SN 23.34 ghi lời Đức Phật dạy pháp đoạn diệt, qua bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:

 

Ngồi xuống một bên, Tôn giả Rādha bạch Thế Tôn: —Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, để con sau khi nghe pháp, có thể sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

“—Cái gì là đoạn diệt pháp, này Rādha, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục, đoạn trừ lòng tham, đoạn trừ lòng dục và tham. Và cái gì là đoạn diệt pháp, này Rādha? Sắc, này Rādha, là đoạn diệt pháp; ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục, cần phải đoạn trừ lòng tham, cần phải đoạn trừ lòng dục và tham. Thọ … Tưởng … Các hành … Thức là đoạn diệt pháp; ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục, cần phải đoạn trừ lòng tham, cần phải đoạn trừ lòng dục và tham.” (ngưng trích) (3)

 

Giải thích cho đơn giản, nghĩa là phải đoạn trừ lòng dục và tham đối với tất cả những cái phóng chiếu về Sắc (cái được thấy, cái được nghe …), với tất cả những cái phóng chiếu về Thọ (vui buồn, ưa ghét, không vui không buồn, không ưa không ghét…), với tất cả những cái phóng chiếu về Tưởng (nhận biết, tư lường…), về Hành, về Thức.  Tức là, nơi năm uẩn, còn gọi là năm ấm.

 

Chỗ này không nên nghĩ rằng diệt tận có nghĩa như đập chết một con ruồi, hay bắt giam một con muỗi. Bởi vì như thế vô ích. Bởi vì, bản chất của vô thường đã có sẵn tịch diệt tướng. Trong Tạp A Hàm, Kinh SA 260, bản dịch của hai thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng cho thấy năm uần (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là tạo thành từ các hành quá khứ của mình, là do ước nguyện (intention, ý nguyện, ý định…) từ quá khứ của mình tạo nên, và trong bản chất của ngũ uẩn là có sẵn tánh vô thường, tánh tịch diệt, trích:

 

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi: ‘A-nan, gọi là diệt. Thế nào là diệt? Ai có diệt này?’

Tôn giả A-nan nói: ‘Xá-lợi-phất, năm thọ ấm là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt. Những gì là năm? Sắc thọ ấm là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt. Cũng vậy thọ, tưởng, hành, thức là cái được tạo tác bởi hành trước kia, là cái được ước nguyện trước kia, là pháp vô thường, diệt. Pháp này diệt nên nói là diệt.’” (4)

 

Theo ý kinh này, trong tự tánh của “sắc thọ tưởng hành thức” đã có sẵn cả “vô thường và tịch diệt” – và không có nghĩa là, kết thúc vô thường mới thấy tịch diệt.

Bản tiếng Anh của Bhikkhu Analayo viết, trích: “Ānanda said: “Sāriputta, the five aggregates of clinging are the product of former deeds, of former intentions. They are impermanent and of a nature to cease. Because of their nature to cease, this is called cessation…” (4)

Chúng là vô thường và có một bản tánh là diệt. Bởi vì bản tánh của chúng là diệt, nên đây gọi là tịch diệt… Nghe vang vọng văn phong của Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Pháp Bảo Đàn, và Kinh Pháp Hoa như đã dẫn nơi đầu bài.

 

Trong phần trích lời Lục Tổ Huệ Năng ở đầu bài, có câu: “Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn ngày tìm cầu.”

 

Một số người không hiểu pháp ấn vô thường, nên dễ nhầm lẫn về cách nói “người tu phải nhìn thấy các pháp như thực” – nhóm chữ này trong kinh điển hoàn toàn không có nghĩa là “thấy màu xanh thì nhận ra màu xanh, thấy màu đỏ thì nhận ra màu đỏ.” Ý của Đức Phật là, “nhìn như thực” là phải nhìn ra pháp ấn vô thường, vô ngã trong tất cả pháp. Gần đây, khoa học đã chứng minh rằng những gì chúng ta tưởng là “nhìn như thực” hóa ra lại là “nhìn như ảo” – cụ thể, tất cả những màu sắc mà chúng ta tưởng đang nhìn thấy, hóa ra là không có thực, và được thấy màu sắc trước mắt chỉ là do tâm chúng ta hóa hiện ra thôi. Bản tin BBC viết: “Điều đầu tiên để nhớ rằng, màu sắc không thực sự hiện hữu… Cái hiện hữu là ánh sáng. Ánh sáng có thực.” (The first thing to remember is that colour does not actually exist… What exists is light. Light is real.) (5)

Khi nói ẩn tàng trong những cái “vô lượng màu sắc” có một cái “không màu sắc” hẳn là nghe rất là Thiền Tông…

Cách nói cổ truyền của Thiền Tông, rằng trong vô lượng ý niệm đang sinh sinh diệt diệt, vẫn có một tâm bất động. Và trong vô lượng cái vô thường huyễn hóa trước mắt, bên tai, vẫn có một Niết Bàn tịch diệt không rời. Cũng như nước không rời vô lượng lớp sóng, như gương không rời vô lượng ảnh hình phản chiếu. Và tánh ướt của nước, tánh chiếu sáng của gương… chính là tâm bất động, là tịch diệt Niết bàn.

 

GHI CHÚ:

1) Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải: https://thuvienhoasen.org/p17a1634/pham-thu-bay-co-duyen

2) Kinh SA 747: https://suttacentral.net/sa747/vi/tue_sy-thang

3) Kinh SN 23.34: https://suttacentral.net/sn23.34/vi/minh_chau

4) Kinh SA 260, bản dịch Tuệ Sỹ & Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa260/vi/tue_sy-thang

Bản dịch Analayo: https://suttacentral.net/sa260/en/analayo

5) BBC: Do you see what I see? https://www.bbc.co.uk/news/science-environment-14421303

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/11/2016(Xem: 9228)
Chúng ta đều biết, giáo dục là công trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh. Giáo dục xây dựng tính nhân văn cho một quốc gia và làm thành nhân cách sống con người cao quý, thiện lành, đẹp đẽ và hạnh phúc cho từng cá nhân trên hành tinh này. Đạo phật đã có một bề dầy 26 thế kỷ của công trình giáo dục,
05/11/2016(Xem: 8505)
Hồi còn nhỏ, còn trẻ tôi ít khi nghe đến từ ly dị, cả một cái làng Trại Mộ, cả một xóm Cỏ May (nơi tôi sinh trưởng và lớn lên) không hề nghe đến cặp vợ chồng nào ly dị. Thỉnh thoảng vợ chồng các chị gái có lục đục kình cãi thì mẹ tôi khuyên:"Vợ chồng cũng giống như chén bát trong sóng, khi đụng đến thì phải khua thôi, tụi con mỗi đứa nhịn nhau một chút thì sẽ yên cửa yên nhà". Mẹ khuyên chừng đó thôi, anh chị nghe theo và gia đình không còn xào xáo nữa.
03/11/2016(Xem: 15155)
Chấp ngã là từ nhà Phật. Chữ Ngã, từ Hán我 thuộc bộ qua戈. Qua戈có nghĩa là cái mác; dụng cụ của người lính lúc xưa. Ngã 我 gồm chữ qua戈 bên phải và chữ thiên bên trái 千. Ta là tất cả, trong ta luôn có nghìn con dao, cái mác. Cái ngã là ghê vậy đó. Chiến tranh thù hận cũng vì cái ngã.
01/11/2016(Xem: 7280)
Báo xuân Việt Báo Tết Bính Thân 2016, bài Huỳnh Kim Quang, “50 Năm Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ” có ghi lại việc Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đã thu nhận nhiều đệ tử người Mỹ và trở thành vị Sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Bài viết mới của Lệ Hoa Wilson kể về chuyến hành hương tới ngôi chùa mang tên “Thiên Ân”, do một đệ tử người Mỹ của Hòa Thượng Thiên Ân sáng lập trong hoang mạc. Lệ Hoa Wilson là một Phật tử, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, pháp danh Tâm Tinh Cần, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ. Ông bà có văn phòng Di Trú-Thuế Vụ tại Long Beach.
01/11/2016(Xem: 13195)
Ngày xửa ngày xưa, ở Ấn Độ cổ có một người đàn ông vì chán ghét cõi đời hiểm ác nên đã tìm đến cửa Phật, quy y Phật giáo. Tuy rằng thân đã xuất gia, nhập không môn, nhưng trong tâm ông vẫn quyến luyến ngoại giới
30/10/2016(Xem: 10188)
Là người đồng sáng lập Sen Việt (Phó CT HĐQT Sen Việt/Tổng GĐ Picas Art), cùng đạo diễn Điệp Văn (ĐV) tạo ra những tác phẩm Phật giáo & cho cộng đồng có giá trị, lý do nào Lâm Ánh Ngọc (LAN) đã bất ngờ kết thúc hợp tác với Đạo diễn ĐV & rút khỏi Sen Việt? - Dạ. Như thông tin N có đưa trên mạng cộng đồng, N kết thúc hợp tác vào tháng 5, nhưng vì vài lý do nên chưa thể thông báo đến mọi người sớm cho đến tận tháng 10. Tất cả được diễn giải ngắn gọn bằng câu "hết duyên do quan điểm và định hướng công việc không còn tiếng nói chung" là đủ ý nghĩa ạ, không thể giải thích gì thêm sẽ dài dòng rối rắm. N nghĩ rằng mỗi người sẽ có cảm nhận riêng cụ thể và tinh tế để hiểu cái hết duyên của LAN và đạo diễn ĐV là gì theo thời gian thôi.
28/10/2016(Xem: 6794)
Đối với người cư sĩ, ai cũng muốn có sự tiếp nối của mình tương lai. Bởi ước muốn tiếp nối, nên trong mỗi người luôn có hạt giống về tình dục và chức năng sinh sản. Tình dục và sinh sản là chức năng không thể phủ nhận. Mình không nên phủ nhận, nhưng mình cũng không nên nhầm lẫn tình dục với tình yêu. Tình dục có thể đem lại cảm giác vui sướng và gắn kết giữa hai người nếu ở đó có mặt tình yêu. Tình dục có thể trở thành tình yêu và ngược lại tình yêu là nguồn gốc nảy sinh tình dục. Cho nên có thể nói yêu rồi thương, hoặc thương rồi mới yêu là vì vậy.
25/10/2016(Xem: 16266)
Con về trời đổ mưa to - Thầy trao con một chiếc Ô che đầu- Con không cần trả lại đâu! - Giữ mà che lúc dãi dầu nắng sương..
24/10/2016(Xem: 6585)
Nhân ngày sinh 90 của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, rất nhiều người Phật tử và không Phật tử đã làm nhiều việc tốt đẹp để cầu nguyện cho Thiền Sư thọ mạng dài lâu với bốn chúng đệ tử và mọi người thương mến Thiền Sư ( xin được thay từ Thiền Sư bằng Sư Ông cho thân mật). Tôi cũng xin được đóng góp một vài kỷ niệm với Sư Ông.
24/10/2016(Xem: 12894)
Tôi có người đệ tử, đi nước ngoài về tặng cho tôi một bức thư pháp có chữ Smile (mỉm cười) của Thiền Sư Nhất Hạnh. Chữ viết bằng bút lông , mực tàu trên giấy dó. Tôi rất trân quý bức thư pháp này, trong ngày luôn nhìn chữ Smile, để tập cười, tập nuôi dưỡng chánh niệm (bởi vì tôi cũng rất khó cười). Thiền Sư Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]