Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư gửi người cư sĩ trẻ

13/06/202220:08(Xem: 3878)
Thư gửi người cư sĩ trẻ

Thư gửi người cư sĩ trẻ

Nguyên Giác

Cu-si-tre-tai-gia

Duyên khởi bài viết này vì, mấy hôm đầu tháng 5/2022, được một người em họ từ Nebraska sang thăm, nghe vài chuyện Phật sự nơi miền Trung Tây Hoa Kỳ, lòng vui mừng được biết em mình vẫn tin sâu Tam Bảo cho dù đang ở một nơi rất vắng người Việt. Cũng không có nhiều thì giờ để nói chuyện tu học. Phần vì, người từ miền xa lần đầu tới Quận Cam, chỉ có vài ngày chủ yếu là để đi chơi, chụp hình lưu niệm. Do vậy, thư này được viết để trình bày một vài suy nghĩ về tu học và hộ trì Chánh pháp. Mặt khác, để tránh bầu không khí gia trưởng, và để bài viết thích hợp với nhiều bạn cư sĩ trẻ sơ cơ, bài này sẽ dùng cách xưng hô là “tôi” và “bạn” --- hy vọng có vài gợi ý khả dụng cho nhiều độc giả trẻ trong và ngoài nước. Bài viết sẽ trích dẫn kinh điển, tập trung về vai trò người cư sĩ, về khuyến tấn tu chứng quả Dự lưu để bảo đảm sẽ không bao giờ rơi về ác đạo nữa. Các sai sót nếu có, xin được sám hối cùng Tam Bảo.

 

Thế nào là cư sĩ?

Trước tiên, chúng ta nên thấy rõ thế nào là cư sĩ. Trong Kinh AN 8.25, cư sĩ Thích tử Mahànàma hỏi Đức Phật thế nào là một cư sĩ. Đức Phật trả lời, cư sĩ là người sống với 3 hạnh: thứ nhất, quy y Phật Pháp Tăng; thứ nhì, giữ năm giới; thứ ba, khuyến tấn và thực hành tự lợi và lợi tha. Nếu thiếu một trong ba chi vừa dẫn, hiển nhiên là còn thiếu sót.

Đức Phật dạy rằng cư sĩ là người, trích Kinh AN 8.25, bản dịch của Thầy Minh Châu: "...quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng... từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu... tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp." (hết trích)

 

  Ác giới dẫn tới địa ngục, Thiện giới dẫn tới cõi trời

Trong Kinh AN 5.174, Đức Phật nói với cư sĩ Anàthapindika:

"—Này Gia chủ, ai không đoạn tận năm sợ hãi hận thù, được gọi là ác giới và sanh vào địa ngục. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, ai không đoạn tận năm sợ hãi hận thù này, được gọi là ác giới và sanh vào địa ngục.

—Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ hãi hận thù, được gọi là có giới và sanh lên cõi Trời. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ hãi hận thù này, được gọi là có giới và sanh lên cõi Trời." (ngưng trích)

 

Kẻ bị quăng bỏ ra khỏi hàng ngũ cư sĩ, người là hòn ngọc trong giới cư sĩ

Không phải ai cũng là cư sĩ được. Trong Kinh AN 5.175, Đức Phật dạy rằng có những kẻ phải bị quăng bỏ ra ngoài hàng ngũ cư sĩ, và có những vị là viên ngọc sáng trong hàng cư sĩ. Bản dịch của Thầy Minh Châu trích:

"--- Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là kẻ bị vất bỏ khỏi giới nam cư sĩ, là cấu uế cho nam cư sĩ, là tối hạ liệt cho nam cư sĩ. Thế nào là năm? Không tin; ác giới; đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; tin tưởng điềm lành; không tin hành động; tìm kiếm ngoài (Tăng chúng) người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước...

--- Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ. Thế nào là năm? Có lòng tin; có giới; không đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; không tin tưởng điềm lành; tin tưởng ở hành động; không tìm kiếm ngoài Tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước." (ngưng trích)

 

Thiện giới: Biết ơn ba mẹ, trả ơn ba mẹ

Đức Phât dạy rằng biết ơn, trả ơn ba mẹ là phải giúp cho ba mẹ có lòng tin vào Tam Bảo, an trú ba mẹ vào lòng tin, vào thiện giới, vào bố thí, vào trí tuệ. Trong Kinh AN 2.32, Đức Phật dạy về ơn ba mẹ: "Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha." (ngưng trích)

 

Quả Dự lưu có 4 chi: tin Tam Bảo, giữ giới để đắc định

Trong Kinh SN 55.2, Đức Phật dạy, trích bản dịch của Thầy Minh Châu: "Thành tựu bốn pháp, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không có thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Đây là bậc Ứng cúng … Phật, Thế Tôn”. Đối với Pháp … Đối với Tăng … Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính … đưa đến Thiền định. Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?" (ngưng trích) (1)

 

Dự lưu: thấy rõ tập khởi, đoạn diệt…

Trong Kinh SN 23.7, Đức Phật dạy: "Này Rādha, có năm thủ uẩn này. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn … thức thủ uẩn. Này Rādha, khi nào bậc Đa văn Thánh đệ tử như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này. Vị này, này Rādha, được gọi là vị Thánh đệ tử đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến cứu cánh bồ-đề." (ngưng trích) (2)

 

Dự lưu: Lòng tịnh tín bất động là chìa khóa

Trong Kinh AN 10.64, Đức Phật dạy:

"Này các Tỷ-kheo, những ai có lòng tịnh tín bất động ở nơi Ta, tất cả những vị ấy là những bậc Dự lưu. Với những bậc Dự lưu ấy, năm hạng người đạt được cứu cánh ngay ở nơi đây. Năm hạng người, sau khi từ bỏ đời này, đạt được cứu cánh. Và năm hạng người nào, đạt được cứu cánh, ngay ở nơi đây?

Hạng trở lui nhiều nhất là bảy lần (Thất lai), hạng Gia gia, hạng Nhứt chủng, hạng Nhất lai, và vị nào là vị A-la hán ngay trong hiện tại. Năm hạng người này đạt được cứu cánh ngay ở nơi đây…” (ngưng trích) (3)

Ghi nhận: chữ “Gia gia” nơi đoạn thứ nhì ở trên là chỉ bậc Dự lưu còn tái sinh 7 lần, còn tái sinh từ nhà này sang nhà kia (theo bản dịch Sujato.)

 

Phạm giới nhỏ, cũng có thể là bậc Dự lưu

Trong Kinh SN 55.24, trích, bản dịch của Thầy Minh Châu:

"Ngồi một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:

—Ở đây, bạch Thế Tôn, họ Thích Sarakàni đã mệnh chung và được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu … chứng quả giác ngộ. Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông họ Thích khi tụ tập lại với nhau, chỉ trích, phê bình, bàn tán: “Thật là lạ lùng! Thật là hy hữu! … Họ Thích Sarakàni đã phạm giới và uống rượu.”

—Này Mahānāma, một cư sĩ lâu ngày qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng làm sao có thể đi đến đọa xứ được?

Này Mahānāma, nếu nói một cách chơn chánh: Người cư sĩ nào đã lâu ngày qui y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nói một cách chơn chánh phải nói là họ Thích Sarakàni. Này Mahānāma, họ Thích Sarakàni đã lâu ngày quy y Phật, quy y Pháp, qui y Tăng, làm sao có thể đi đến đọa xứ? (...…)

Nếu những cây ta-la lớn này, này Mahānāma, biết những gì là thiện thuyết, ác thuyết, thời Ta cũng sẽ tuyên bố những cây ấy là những bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ, huống nữa là họ Thích Sarakàni..." (ngưng trích) (4)

Tương đương là bên A Hàm, Kinh SA 936, ghi thêm rằng có yếu tố cận tử biết tỉnh ngộ: “Này Ma-ha-nam, Bách Thủ họ Thích lúc sắp chết, nhờ thọ trì tịnh giới, bỏ uống rượu nên sau khi mạnh chung Ta ký thuyết ông đắc Tu-đà-hoàn,… cho đến cứu cánh thoát khổ.”

 

Dự lưu: tịnh tín Tam Bảo, lìa tham, thường bố thí

Trong Kinh SN 55.39, Đức Phật dạy cho một nữ cư sĩ, trích:

"— Thành tựu bốn pháp, này Godhà, vị nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này Godhà, vị nữ Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Đây là bậc Ứng Cúng, … Phật, Thế Tôn” … đối với Pháp … đối với chúng Tăng … Vị này trú ở gia đình, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí. Này Godhà, thành tựu bốn pháp này, một nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ." (ngưng trích) (5)

 

Chọn pháp tu thích hợp

Đọc kỹ lời Đức Phật dạy về quả Dự lưu, chúng ta thấy phần lớn tập trung vào giới và sự tương tác với xã hội chung quanh. Thí dụ, quy y, giữ giới, ngoài đời giỏi tay nghề, trong đạo tịnh tín bất động, lòng ưa bố thí, không vướng cấu uế, từ bỏ xan tham, không theo tà kiến (không đoán tương lai, không tin điềm lành, không theo nghi lễ đặc biệt [của ngoại đạo]...). Duy trong Kinh SN 23.7 nêu trên, Đức Phật nói người chứng Dự lưu là đã như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn --- tức là Thiền, tức là quán sát thân tâm để thấy sinh diệt của năm thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức); Đối chiếu với nhiều Kinh khác, nếu thấy thực sự trọn vẹn như thế, cũng chính là đã chứng quả A la hán.

Trong cương vị người cư sĩ hiện nay, nhất là những người sống nơi xa ở xứ người, may mắn thì còn gần chùa, gần thầy, còn thì cơ duyên học pháp phần lớn là đọc bài trên mạng, nghe pháp trên YouTube; trường hợp như thế, nên tự tu tập nhiều pháp, để rồi sẽ chọn một hay vài pháp thích nghi. Đôi khi, gặp những đoạn văn tiếng Việt khó hiểu trong Kinh, nên tìm đọc bản tiếng Anh đối chiếu để hiểu rõ hơn. Thêm nữa, đọc Kinh đối chiếu với tiếng Anh cũng là cơ hội học tiếng Anh. Nếu tiếng Anh còn kém, nên vào YouTube và gõ “learning English” để theo các video học tiếng Anh; không có trường nào dạy tiếng Anh trên đời này xuất sắc hơn YouTube.

Thiền tâm từ, tưởng bất tịnh, niệm hơi thở, tưởng vô thường, tưởng vô ngã…

Đức Phật có dạy một pháp để được 11 lợi ích, trong đó người tu sẽ được chư Thiên bảo hộ: đó là Thiền Tâm Từ. Kinh AN 11.15 ghi lời Đức Phật dạy: "...từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một? Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng, được loài người ái mộ, được phi nhân ái mộ, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả); được sanh lên Phạm thiên giới."

Cách đơn giản để tu Tâm từ là ghi nhớ lời Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sinh đều đã từng là ba mẹ, anh chị của mình. Hoặc thọ trì Kinh Metta Sutta trong đó ghi lời Đức Phật dạy rằng tu Tâm từ là tự thấy mình là mẹ và xem tất cả chúng sinh các cõi như đứa con trai độc nhất của mình.

Trong Kinh Ud 4.1, Đức Phật dạy ngài Meghiya (một vị thị giả của Đức Phật trong những năm trước khi ngài Ananda giữ chức thị giả bên Phật): "Nên tu tưởng bất tịnh để xa lìa tham, tu tâm từ để xa lìa sân, tu niệm hơi thở để cắt đứt dòng suy nghĩ, và tu pháp tưởng vô thường để nhỗ gốc rễ cái chấp 'có tự ngã'."

Chúng ta nên đơn giản hóa pháp tu bất tịnh, dựa theo Kinh AN 4.169: "...sống quán bất tịnh trên thân, với tưởng nhàm chán đối với các món ăn, với tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng chết, khéo an trú nội tâm..." Như thế, bất tịnh nghĩa là nhàm chán và không vui sướng  với tất cả những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được hay biết (nghĩa là thế giới trong và ngoài thân tâm). Còn niệm tử, hay tưởng chết, nên rút gọn về cái nhìn tất cả các pháp đang tịch diệt, như thế nghĩa là đang thấy, nghe, cảm thọ, hay biết tất cả các pháp đang biến mất, đang tan rã (kể cả thân tâm mình).

Thiền hơi thở có thể xem là một phần của Niệm Thân. Nhiều Kinh ghi về Thiền hơi thở đầy đủ có 16 chi. Tuy nhiên, có một số Kinh, ghi lời Đức Phật dạy cách thở đơn giản là “quán từ bỏ (xả ly) trong khi niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra.” Nghĩa là, chỉ có 2 chi .

Kinh SN 54.4 ghi rằng: "Tu tập như thế nào, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như thế nào, niệm hơi thở vô, hơi thở ra có quả lớn, có lợi ích lớn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi kiết-già… “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Niệm hơi thở vô, hơi thở ra được tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, được làm cho sung mãn như vậy, được chờ đợi một trong hai quả sau: Ngay trong hiện tại, được Chánh trí; nếu có dư y, chứng quả Bất lai." (ngưng trích) - (Các Kinh SN 54.6, SN 54.7, SN 54.9 cũng tương tự). (6)

Trong Kinh AN 9.20, Đức Phật dạy rằng niệm tâm từ và niệm vô thường có công đức và oai lực rất lớn, rằng có cúng dường 100 vị A la hán, 100 vị Độc giác Phật, một Như Lai, và xây tịnh xá cho vô lượng chư tăng mười phương thì cũng không bằng "có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia." (7)

Thế nào là niệm vô thường? Niệm vô thường là liên tục thấy rằng không có gì có thể gọi là một cái gì, vì dòng chảy xiết luôn luôn trôi chảy qua thế giới trong và ngoài thân tâm chúng ta. Chúng ta không thể nghĩ về cái hiện tiền, vì thế giới hiện tiền được ví như điểm tiếp giáp là hạt mè lơ lửng nơi đầu mũi kim. Thấy như thế, là thấy không có bất kỳ pháp nào có thể gọi là tự ngã. Chúng ta không có tự ngã, vì thân tâm chỉ là một dòng sông đang chảy xiết của “một nhúm bọt sắc thọ tưởng hành thức”… Các Thiền sư thời xưa thường nói, mở miệng là sai rồi. Bời vì mở miệng, là mất liền pháp hiện tiền.

Niệm vô thường cũng dẫn tới thấu triệt vô ngã. Để sống với dòng sông vô thường, để nhận ra khối lung linh vô ngã của thân tâm, cách tiếp cận phải là trực tiếp, không dựa vào bất kỳ phương pháp nào, phải là  cái thấy tỉnh thức của vô ngôn, của vô tâm. Khi chúng ta xem trận bóng đá trên TV, hễ suy nghĩ so đo là mất liền cái thấy hiện tiền nơi quả bóng, hễ mở miệng nhận định đúng sai giỏi dở là mất liền cái thấy hiện tiền của những bước chạy theo bóng. Nghĩa là, cái thấy hiện tiền là một tỉnh thức thường trực của vô ngôn (không bàn cãi nói năng), của vô tâm (không nghĩ ngợi). Tương tự, khi chúng ta nghe một ca sĩ hát, hễ suy nghĩ so đo là mất liền cái nghe hiện tiền nơi lời ca, hễ mở miệng nhận định đúng sai giỏi dở là mất liền cái nghe hiện tiền của ý nhạc. Nghĩa là, cái nghe hiện tiền là một tỉnh thức thường trực của vô ngôn (không bàn cãi nói năng), của vô tâm (không nghĩ ngợi). Tương tự, với cảm thọ, với nhận biết. Hễ nghĩ ngợi, hễ dùng ngôn ngữ là mất liền cái hiện tiền, bởi vì ngôn ngữ và nghĩ ngợi là cái khung của quá khứ, là cái gánh nặng của vô lượng ngày hôm qua. Ngay khi thấy nghe cái hiện tiền (dù là của trận bóng đá hay của cuộc hòa nhạc) thì vô lượng những cái ngày hôm qua biến mất, vì cái hiện tiền không phải Tây, Tàu, Mỹ, Việt, Nhật, Hàn… mà chính là vô lượng cái không biết, vô lượng cái chưa từng biết, và là cái hạnh phúc hiển lộ ngay khi chúng ta sống được trong cái hiện tiền vô thường (dù là đang xem đá bóng) thì đã không còn thấy bóng dáng tham sân si nơi nào.

Nhận biết mình đang tắm trong dòng sông vô thường  cũng là hiểu rõ như thật, cũng là Thiền Tịnh, theo lời Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.100, trích: "Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật. Và hiểu rõ gì như thật? Như thật hiểu rõ mắt là vô thường, như thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn thức là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường. Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường… tai… lưỡi… thân… ý… Này các Tỷ-kheo, hãy hành trì hạnh Thiền tịnh." (ngưng trích) (8)

Đó chính là cái thấy tối thượng, cái nghe tối thượng… như ghi trong Kinh SN 35.100: "Tôn giả Bhaddaji vâng đáp Tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda nói như sau: —Khi người ta nhìn, này Hiền giả, không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là sự thấy tối thượng. Khi người ta nghe không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là sự nghe tối thượng. Khi người ta cảm giác lạc thọ không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là an lạc tối thượng. Khi người ta cảm tưởng không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là tưởng tối thượng. Khi người ta hiện hữu không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là hữu tối thượng." (9)

Đức Phật còn dạy nhiều pháp nữa. Nơi đây chỉ viết lại theo kiểu rút gọn một số pháp tiện dụng cho bạn. Khi hiểu được một cửa vào, rồi sẽ hiểu tất cả những cửa vào khác, vì vị giải thoát chỉ là một. Mỗi người cư sĩ đều sẽ tự thích nghi theo cách riêng. Chỉ hy vọng rằng bài viết này là một lời mời lên đường cho các bạn trẻ, để bước vào kho tàng mênh mông của Chánh pháp. Và đừng bao giờ đi chệch hướng.

GHI CHÚ:

(1). Kinh SN 55.2: https://suttacentral.net/sn55.2/vi/minh_chau

(2). Kinh SN 23.7: https://suttacentral.net/sn23.7/vi/minh_chau

(3) . Kinh AN 10.64: https://suttacentral.net/an10.64/vi/minh_chau

(4). Kinh SN 55.24: https://suttacentral.net/sn55.24/vi/minh_chau

(5). Kinh SN 55.39 https://suttacentral.net/sn55.39

(6). Kinh SN 54.4: https://suttacentral.net/sn54.4/vi/minh_chau

(7). Kinh AN 9.20: https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau

(8). Kinh SN 35.100: https://suttacentral.net/sn35.100/vi/minh_chau

(9). Kinh SN 35.100: https://suttacentral.net/sn35.100/vi/minh_chau

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2014(Xem: 14433)
Vào ba ngày Tết của người Thái, các bức tượng Phật được đặt bên ngoài hiên chùa để người dân đến làm lễ tắm Phật, dâng hương và cầu may mắn.
06/04/2014(Xem: 19935)
Người đứng đầu Truyền thừa Phật giáo Kim cương thừa Drukpa luôn quan niệm đưa triết lý Phật giáo vào hành động, tìm con đường giải thoát cho những vấn đề mà con người gặp phải ngày nay.
02/04/2014(Xem: 17291)
Kim Dung đã tìm đến Kinh Phật để mong lý giải nguyên nhân cậu con trai Tra Truyền Hiệp tự tìm đến cái chết khi chưa tròn 20 tuổi. Kim Dung, tên thật Tra Lương Dung, là nhà văn đương đại nổi tiếng Trung Quốc. Ông được đông đảo độc giả hâm mộ bởi hàng loạt tiểu thuyết võ hiệp đặc sắc như Thiên long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ, Lộc Đỉnh ký, Tiếu ngạo giang hồ… Kim Dung được mệnh danh là “Thái Sơn, Bắc Đẩu” trong giới tác giả viết tiểu thuyết võ hiệp.
28/03/2014(Xem: 11337)
anger-face Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận. Có cơn giận sôi sục, có cơn giận lành giá, có cơn giận làm bạn run lẩy bẩy, có cơn giận bùng lên như lửa cháy. Và có cơn giận chính mình – chúng ta gọi là tự căm ghét mình.
27/03/2014(Xem: 12686)
Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai, Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng (Vice Chancellor and President) Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới.
26/03/2014(Xem: 11747)
Trị liệu ung thư bằng chánh niệm là một tập sách ghi chép lại kinh nghiệm của thầy Chân Pháp Đăng về quá trình trị liệu thành công căn bệnh ung thư ruột già của thầy mà không sử dụng những phương pháp y khoa hiện đại như hóa trị, xạ trị….
23/03/2014(Xem: 20288)
Bài giảng cuối cùng là câu chuyện đẹp về người thầy, một người bạn, một người chồng và người cha, về giá trị nhân văn cao cả của cuộc sống. Bài giảng của người thầy đã cận kề với cái chết không nói gì về sự ra đi, mà lại là những câu chuyện hài hước, dí dỏm để đúc kết những chân lý sống “nếu bạn dám ước mơ điều gì, bạn sẽ có thể thực hiện được điều đó". Đó là người thầy của Trường Đại học Carnegie Mellon (Mỹ) - Randy Pausch, người đã mang đến một bài giảng có sức sống vượt ra khỏi khuôn khổ nhà trường để đến với công chúng toàn thế giới. Bài giảng cuối cùng thật xúc động, chân tình và đầy ý nghĩa đã được kết tinh lại thành những trang sách có sức lan tỏa đến hàng triệu trái tim người đọc trước khi ông qua đời ở tuổi 47 vào giữa năm 2008 vì bệnh ung thư. Sách đã được dịch ra 35 thứ tiếng.
22/03/2014(Xem: 8305)
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. * “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
21/03/2014(Xem: 12171)
Có người thợ mộc già làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu lâu năm cho hãng thầu xây cất . Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình. Tuy không còn có đồng lương nhưng ông ta muốn nghỉ ngơi để an hưởng tuổi già.
21/03/2014(Xem: 26065)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]