Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiết lập Lộ trình Hạnh phúc Xã hội Cho người Phật tử

01/05/202209:17(Xem: 4259)
Thiết lập Lộ trình Hạnh phúc Xã hội Cho người Phật tử

Thiết lập Lộ trình Hạnh phúc Xã hội Cho người Phật tử

(Mapping Buddhists’ Social Paths to Happiness)

 Thiết lập Lộ trình Hạnh phúc Xã hội Cho người Phật tử

"Trong Đại dịch: Suy ngẫm về Tương lai và Giá trị và Thực tiễn Phật giáo đóng góp như thế nào?" (In Pandemic Times: Reflecting on Futures and How Buddhist Values and Practices are Contributing), tác phẩm này là phần tiếp theo của bài viết trước đó và tiến thêm một bước trong cấu hình phân tích xã hội học thấm nhuần phương pháp luận Phật giáo. Sự kết hợp cả hai thế giới quan thông qua các yếu tố trùng hợp cung cấp cho chúng ta cơ hội để vượt qua các bộ phận, cá nhân và nhìn ra xã hội toàn cầu. Vào dịp này, sự tương tác giữa các giá trị và hành động của các Phật tử đến một bản đồ hành trình kết nối với nhau dưới dạng mạng lưới thể hiện sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau và các con đường. Tôi tiếp cận thế giới xã hội Phật giáo bằng cách tập trung vào một trong những chiều kích trung tâm của nó: các con đường xã hội đến và đi từ hạnh phúc.

 

Đây là một bài tập dựa trên những ý tưởng và khái niệm bắt nguồn từ những con đường và bản đồ, những thứ mà các Phật tử rất quen thuộc. Bản đồ và con đường thường được sử dụng trong Phật giáo để mô tả sự phát triển cá nhân, chuyển động hướng đến Hạnh phúc, Niết bàn và Giác ngộ, hoặc về con đường tâm linh, con đường cứu rỗi, v.v. Khía cạnh xã hội ở đây được định nghĩa bởi tổng thể các cá nhân và các hành động, giá trị đối với người khác. Các bản đồ và con đường là kết quả của sự tương tác giữa các giá trị đó và các hành động xã hội.

 

Hạnh phúc là một trong những yếu tố trung tâm trong tường thuật và thế giới quan Phật giáo và việc theo đuổi nó chuyển thành những Con đường - Thực hành - để đạt được nó. Một phần quan trọng của những con đường này là về mặt xã hội bởi nó liên quan đến các mối quan hệ với những sinh vật khác. Do đó, những ý tưởng này vượt ra ngoài khía cạnh cá nhân - chỉ đơn thuần là những thực hành riêng lẻ trên những con đường riêng lẻ - và liên quan đến các giá trị và ý kiến xã hội, cũng như các hành động và thực hành xã hội, liên quan đến các mối quan hệ với những người khác. Các khái niệm bao gồm Vô ngã, Duyên khởi, Tính không, Tính không nhị nguyên, Luật nghiệp báo, ý niệm về Bồ tát, Từ bi tâm và Tứ vô lượng tâm, tất cả đều bao hàm mối tương quan với những chúng sinh khác, nhằm hướng đến sự an lành và hạnh phúc của họ. Những mối tương quan này có thể được sử dụng để phác thảo một bản đồ xã hội, mô tả các con đường dẫn đến hạnh phúc.

 

Phân tích này dựa trên logic Phật giáo về duyên khởi, liên kết và liên tục chuyển hóa, cùng với quy luật nghiệp báo, xác định một mô hình tương tác nhân quả phức tạp - nguyên nhân và điều kiện trong tương tác liên tục, phác thảo nên cả câu chuyện và con đường.

 

Đồng thời, là nguyên nhân và kết quả hạnh phúc, được kết nối với nhau và các yếu tố khác, tạo nên mạng lưới tương tác nhân quả phức tạp. Để hình dung nó như một không gian xã hội và hiểu nó như một bản đồ và lộ trình, chúng tôi sử dụng mối tương quan giữa các giá trị và thực hành thực tế của các Phật tử, được thu thập trong Khảo sát Giá trị Thế giới, như một liên hệ mô phỏng và như một con đường hiện có giữa các cặp phạm trù trong tổng số điểm.

 

Mối quan hệ giữa các cặp yếu tố - giá trị và hành động - trở thành mối quan hệ được kết nối về mặt khái niệm dưới dạng liên hệ và đường dẫn. Từ các mối quan hệ nhị phân này, chúng ta chuyển sang các mối liên hệ giữa tất cả các giá trị và thông lệ. Biểu diễn đồ họa của nó trong đó là một mạng lưới chúng ta có thể phân tích và hình dung không chỉ mối quan hệ định hình không gian này mà còn cả các lộ trình đến và đi từ hạnh phúc.

 

Thực hành và giá trị là một phần của tích lũy phương tiện thiện xảo Phật giáo và cũng giống như sự kết hợp của các phương tiện thiện xảo mang lại nhiều khả năng hoạt động, sự kết hợp giữa các giá trị và thực hành tạo ra nhiều kết nối và con đường xã hội.

 

Lộ trình đến Hạnh phúc

 

Hình 1 diện cho hệ thống tương tác nhân quả mạnh mẽ, định hình bản đồ về hạnh phúc xã hội. Nó cho thấy một cấu trúc được tạo thành từ nhiều đường dẫn kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp đến tất cả các điểm đại diện cho các giá trị và hành động. Những người thuộc cùng một chiều - về sự Bình đẳng, Tôn giáo, Tình yêu thương, Địa vị xã hội hoặc chất lượng cuộc sống - có xu hướng xuất hiện gần nhau và nằm trong các không gian khác nhau trên bản đồ theo hệ thống mối quan hệ của chúng.

 Hình 1 Bản đồ xã hội về hạnh phúc

Hình 1: Bản đồ xã hội về hạnh phúc. Ảnh: Tác giả

 

Phía nên trái của bản đồ xã hội, chúng ta tìm thấy các chỉ số về sự bình tĩnh và tầm nhìn của người khác (màu xanh lam) và phía bên phải, chúng ta tìm thấy các chỉ số về ngưỡng mộ tôn giáo (màu hoa vân anh). Toàn bộ không gian xã hội được kết nối bởi các yếu tố của tình yêu (các nút màu vàng) xuyên qua nó từ trên xuống dưới. Các chỉ số địa vị xã hội chính (nút màu đỏ) cungc với chất lượng cuộc sống và hạnh phúc (màu xanh lá cây) nằm ở trung tâm của phần cuối bản đồ.

 

Các liên kết giữa các chỉ số cho thấy một động lực vòng tròn nhân quả kết nối toàn bộ hệ thống trong một dòng chảy liên tục. Trong cấu trúc các lộ trình này, các biến/chỉ số của tình yêu thương nổi bật như những trung gian và cầu nối giữa hạnh phúc và mặt trái của hệ thống xã hội, cũng như giữa hai bên trái và phải - giữa bình đẳng và tôn giáo. Tình yêu thương là chìa khóa trong việc tạo điều kiện cho dòng chảy nhân quả liên tục trong hệ thống.

 

Trong Hình 1 Hạnh phúc, nằm ở trung tâm của phần dưới của bàn đồ, được bao quanh bởi các yếu tố bao gồm tình yêu thương, địa vị xã hội, chất lượng cuộc sống và tôn giáo - được thể hiện kích thước lớn hơn và có đường kết nối dày hơn. Trong phạm vi hạnh phúc - được trình bày chi tiết trong Hình 2 - chúng ta thấy tình yêu thương, được thể hiện bằng tầm quan trọng đối với thân hữu bạn bè và gia đình, cùng với địa vị xã hội, được thể hiện bằng thu nhập và tầng lớp xã hội, chất lượng cuộc sống, như sức khỏe và sự thỏa mãn trong cuộc sống, cũng như tôn giáo, được thể hiện bởi tầm quan trọng của nó. Trong cộng đồng này, điều đáng chú ý là các chỉ số về chất lượng và sự tận hưởng cuộc sống - sức khỏe, sự thỏa mãn và hạnh phúc - có liên quan đến các chỉ số về hạnh phúc vật chất cũng như tình yêu thương đối với người khác.

 Hình 2 Mạng lưới các mối quan hệ trực tiếp với hạnh phúc

Hình 2: Mạng lưới các mối quan hệ trực tiếp với hạnh phúc. Ảnh: Tác giả

 

Phần còn lại của hệ thống xã hội, bao gồm các chỉ số đáng giá sự bình đẳng và tin cậy, cùng với tôn giáo và thể hiện tình yêu thương đối với người khác, chỉ cách hai bước hạnh phúc và có thể đạt được thông qua những người hàng xóm. Những người hàng xóm này kết nối hạnh phúc với phần còn lại của hệ thống, tạo thành một mạch tương tác nhân quả. Chiều hướng bình đẳng-tin tưởng kết nối với hạnh phúc một cách trực tiếp nhất thông qua tình yêu thương. Tôn giáo trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sức khỏe và cũng thông qua mạch nhân quả được hình thành bởi tình yêu thương dưới dạng thể hiện đối với người khác, ở phần trên trung tâm. Điều này tiếp tục diễn ra thông qua sự bình đẳng và tin tưởng vào những người khác và một lần tầm quan trọng của những người khác -tình yêu thương ở dưới cùng.

 

Hai mạch nhân quả nổi bật. Đầu tiên là hạnh phúc và chất lượng cuộc sống, với quan hệ nhân quả qua lại - từ hành phúc đến hạnh phúc. Một mạch rộng hơn được hình thành bởi sự hạnh phúc, tình yêu thương, bình đẳng/tin tưởng, tôn giáo và hạnh phúc (thể hiện trong hình 3). Ở đây, hạnh phúc là một phần của con đường nhân quả rộng lớn liên kết với tình yêu thương - thông qua tầm quan trọng của gia đình và thân hữu bạn bè - kết nối với sự tin tưởng và bình đẳng, được liên kết với dưới dạng thể hiện tình yêu thương đối với người khác. Điều này được kết nối tôn giáo, cuối cùng được liên kết với hạnh phúc. Chúng tạo thành một mạch nhân quả theo cả hai hướng chỉ cho chúng ta những con đường dẫn đến hạnh phúc - hạnh phúc là kết quả của con đường xã hội - và hạnh phúc là nhân quả và lực lượng thay đổi - góp phần vào hạnh phúc xã hội hơn thông qua tình yêu thương dành cho người khác.

 Hình 3 Các lộ trình đến và đi từ Hạnh phúc.

Hình 3 Các lộ trình đến và đi từ Hạnh phúc. Ảnh: Tác giả

 

Theo logic nhân quả của Phật giáo, chúng ta có thể nghĩ về chất lượng cuộc sống và hạnh phúc nhiều hơn là những điều kiện và về các giá trị, thể hiện đối với người khác là nguyên nhân. Hai mạch đại diện cho hai khía cạnh nhân quả khác nhau: một (với tư cách là điều kiện) tạo điều kiện cho khả năng xảy ra của tác động nhân quả và mạch kia (như là nguyên nhân) chịu trách nhiệm về những thay đổi trong các yếu tố.

 

Mối quan hệ trực tiếp của chất lượng cuộc sống và địa vị xã hội với hạnh phúc còn nằm ngoài một phần mối quan hệ nhân quả, chúng còn nằm ở vai trò là người thúc đẩy (hoặc hạn chế) các tác động nhân quả. Đây là, chúng tạo ra các điều kiện cho phép tồn tại và nâng cao tác động của các giá trị xã hội và thực hành dẫn đến hạnh phúc.

 

Như một phần kết cho chuyến tham quan phác thảo bản đồ xã hội này

 

Tôi đã xem xét vấn đề này với một loại xã hội học Phật giáo kết hợp các khái niệm từ Phật giáo với các khái niệm xã hội học. Quy luật nghiệp báo có thể so sánh với nhân quả và lý duyên khởi cũng tương quan. Một số trong số này là trung tâm bởi tàm nhìn Phật giáo và những cái khác là trung tâm bởi tầm nhìn xã hội học.

 

Cái nhìn này đã cho thấy đạo Phật là một thực hành xã hội học, hướng đến tha nhân và hướng đến hạnh phúc, được nhìn nhận cả về cá nhân cũng như tập thể và xã hội. Trong mối tương quan giữa các giá trị và thực tiễn xuất hiện một cấu trúc xã hội, kể câu chuyện tự sự về những lộ trình dẫn đến hạnh phúc. Câu chuyện trọng tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma - về tình yêu thương, từ bi tâm và hạnh phúc - mô tả hoàn hảo những con đường xã hội này.

 

Bằng cách có thể đại diện cho bản đồ xã hội, trong đó hạnh phúc được đan xen vào, chúng ta thấy có hai hệ thống hỗ tương cho nhau. Đây là con đường hạnh phúc vật chất thông qua các điều kiện và chất lượng cuộc sống (ở dưới cùng bản đồ) và con đường tình yêu thương thông qua định hướng và thể hiện đối với tha nhân, kết nối toàn bộ hệ thống.

 

Nói tóm lại, nhiều lộ trình định hình nên hai con đường chính dẫn đến và đi đến hạnh phúc - một là hạnh phúc vật chất mang tính cá nhân hơn và lộ trình kia của sự bình đẳng và các giá trị cũng như thể hiện tình yêu thương đối với tha nhân mang tính xã hội hơn. Đây là một loại mạch giao tiếp theo cả hai hướng - một mặt mang đến sự hạnh phúc và dẫn đến các xã hội hài hòa và hạnh phúc hơn, hướng tới hạnh phúc theo chiều ngược lại do kết quả của con đường xã hội.

           

Tác giả Giáo sư Rodríguez Díaz, đã hoàn thành học vị Tiến sĩ Xã hội học tại Đại học Yale, với học bổng của Fulbright và Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội. Thầy là một giáo sư hoàn hảo và đã từng là chủ nhiệm Khoa Xã hội học, Giám đốc Chương trình Tiến sĩ Xã hội học thuộc Đại học Barcelona. Ông đã giao lưu chia sẻ tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu tại Đại học Harvard, thuộc Đại học Yale và tại Đại học California, Santa Barbara.

 

Các nghiên cứu và ấn phẩm hiện tại của ông tập trung vai trò của mạng xã hội trong các tổ chức và xã hội, các nghiên cứu trong tương lai và các khía cạnh hạnh phúc xã hội. Các dòng nghiên cứu này hội tụ trong việc nghiên cứu các quá trình biến đổi và khớp nối của Phật giáo trong xã hội hiện đại. 

 Tác giả Giáo sư Tiến sĩ Rodríguez Díaz

Tác giả Giáo sư Tiến sĩ Rodríguez Díaz
Biên dịch Thích Vân Phong
(Nguồn: Buddhistdoor Global)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 5675)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5484)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5687)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4732)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4721)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4956)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4775)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3872)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7347)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 7593)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]