Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cần Quan tâm nhiều đến sự Cường điệu của các Phương tiện Truyền thông Đại chúng

01/03/202221:19(Xem: 5738)
Cần Quan tâm nhiều đến sự Cường điệu của các Phương tiện Truyền thông Đại chúng

Cần Quan tâm nhiều đến sự Cường điệu

của các Phương tiện Truyền thông Đại chúng

(There is much more to mindfulness than the popular media hype)

 Tác giả Tiến sĩ Pierce Salguero

Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.

 

Hầu hết sự nhiệt thành của công chúng đối với Thiền Chánh niệm, bắt nguồn từ công dụng tuyệt vời của nó trong việc giúp giảm căng thẳng. Nhưng các học giả và nhà nghiên cứu làm việc trong Chánh niệm và bản thân truyền thống đạo Phật, đã vẽ nên một bức tranh phức tạp hơn so với các phương tiện thông tin đại chúng.

 

Y học và Thiền định

 

"Chánh niệm" bắt nguồn từ thực hành thiền Phật giáo, tiếng Pali: "anapana-sati"; tiếng Phạn "Ānāpānasati", một cụm từ tiếng Phạn có nghĩa là "Quán niệm Hơi thở". Trong Tam tạng Thánh điển Phật giáo có bài Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ānāpānasati Sutta).

 

Hiện nay, Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ānāpānasati Sutta) đã phổ biến đối với  các quốc gia Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Nguyên Thủy như các chương trình chính trị dựa trên phương Tây. Định nghĩa một đơn giản, Anapanasati là sự nhận biết những cảm giác chuyển động của hơi thở trong cơ thể được thực hiện trong bối cảnh thiền niệm.

 

Sử gia Phật giáo Erik Braun đã phát hiện nguồn gốc của sự phổ biến đương thời bởi Thiền định Phật giáo tại Myanmar thuộc địa vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Lúc bấy giờ, Thiền chỉ được áp dụng tu tập trong các tu viện, đã được giới thiệu đến công chúng dưới dạng đơn giản hóa và dễ học hơn.

 

Từ thời đó, sự phổ biến việc tu tập thiền Chánh niệm dần dần đến nay là một câu chuyện phức tạp đến kinh ngạc.

 

Tại Hoa Kỳ, thiền định Phật giáo lần đầu tiên được thực hành giữa các cộng đồng đa dạng của những người tìm kiếm tâm linh vào đầu thế kỷ 19. Nó đã được các nhà tâm lý trị liệu chuyên nghiệp áp dụng vào đầu thế kỷ 20. Đến thế kỷ 21, nó đã trở thành một hiện tượng tiếp cận đại chúng được quảng bá bởi những người nổi tiếng như nữ giám đốc truyền thông, diễn viên, người dẫn chương trình trò chuyện, nhà sản xuất truyền hình và nhà từ thiện người Mỹ Oprah Winfrey, tác giả người Mỹ gốc Ấn Độ, diễn giả cộng đồng, người ủng hộ y học thay thế và là một nhân vật nổi bật trong phong trào Thời đại mới Deepak Chopra và nữ diễn viên, nhà sản xuất, nghệ sĩ lồng tiếng, nữ doanh nhân và tác giả người Mỹ Gwyneth Paltrow.

 

Quá trình tiến triển phương pháp tu thiền định Phật giáo, qua các vùng phân chia văn hóa đã chuyển biến việc thực hành theo những cách đáng kể. Thiền hiện đại thường có những mục tiêu ưu tiên khác với truyền thống của Phật giáo. Nó có xu hướng tập trung vào giúp giảm căng thẳng, sức khỏe thể chất lẫn tinh thần hoặc những lợi ích cụ thể trong cuộc sống thường nhật, thay vì sự phát triển tâm linh, đạt đến giải thoát hay giác ngộ.

 

Một khoảnh khắc quan trong trong quá trình chuyển hóa này là việc tạo ra giao thức "Giảm căng thẳng dựa trên Chánh niệm" (Mindfulness-based stress reduction; MBSR) bởi Thiền giả Jon Kabat-Zinn, Giáo sư Y khoa và dạy thiền tại Đại học Massachusetts, Hoa Kỳ. Đến năm 1979, ông đang làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ về sinh học tế bào và giải phẫu học tại Trường Y Đại học Massachusetts và có 13 năm đào tạo và thực hành thiền định. Trong hai tuần nhập thất thiền định, anh ấy đã có một tầm nhìn về những nghiệp báo của anh ấy trong cuộc sống. Anh ấy sẽ sử dụng những hiểu biết sâu sắc mà anh ấy có được từ Phật giáo để giúp đỡ những người Mỹ đang mắc các bệnh mãn tính về sức khỏe và căng thẳng. Để thực hiện sứ mệnh đó, anh đã thuyết phục Trường Y Đại học Massachusetts để anh thành lập Phòng khám Giảm căng thẳng dựa trên Chánh niệm tại đây.

 

Nhân vật quan trọng nhất duy nhất trong quá trình lồng ghép Chánh niệm là Thiền giả Jon Kabat-Zinn, người tạo ra MBSR (Giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm) chương trình đào tạo. Thương hiệu dễ tiếp cận về đào tạo chánh niệm này đã giúp hàng nghìn người giảm bớt tác hại của không chỉ căng thẳng mà còn cả các tình trạng bệnh lý từ đau mãn tính đến bệnh vẩy nến.

 

Chương trình "Giảm căng thẳng dựa trên Chánh niệm" đã giới thiệu một cách tiêu chuẩn hóa trong hướng dẫn cho bênh nhân tu tập thiền định, để các nhà khoa học đo lường lợi ích sức khỏe của họ một cách chặt chẽ hơn.

 

Nghiên cứu về thiền Chánh niệm được "Y liệu hóa" (Medicalized) mới này đã bắt đầu tiếp cận được pháp thiền Quán niệm Hơi thở này trong hai thập kỷ qua. Cho đến ngày nay, có hơn 21.000 bài báo nghiên cứu về thiền Chánh niệm đã làm cơ sở dữ liệu trực tuyến của Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ - gấp hai lần rưỡi số bài báo về Yoga đã được xuất bản, kết hợp Thái cực quyền và Reiki.

 Cần Quan tâm nhiều đến sự Cường điệu của các Phương tiện Truyền thông Đại chúng 1

Bằng chứng Khoa học so với siêu việt của Chánh niệm

 

Bản thân các nhà nghiên cứu Y học cũng có quan điểm về sự lợi ích của Thiền Chánh niệm hơn nhiều so với báo chí phổ biến.

 

Ví dụ, một phân tích tổng hợp năm 2019, là sự đánh giá của nhiều nghiên cứu khoa học cá nhân, chỉ ra rằng bằng chứng về lợi ích của thiền Chánh niệm và các biện pháp can thiệp dựa trên thiền định khác có "những hạn chế đáng kể" và nghiên cứu có "những thiếu sót về phương pháp luận".

 

Dựa trên đánh giá của họ về các tài liệu khoa học, các tác giả cảnh báo không nên trở thành con mồi của "cường điệu hóa Chánh niệm". Về mặt tích cực, họ nhận thấy nhiều hình thức thiền khác nhau ít nhiều có thể so sánh được các liệu pháp thông dụng để trị liệu các chứng trầm cảm, lo âu, đau mãn tính và sử dụng các chất kích thích. Mặt khác, họ kết luận rằng, có thêm bằng chứng trước khi đưa ra bất kỳ tuyên bố mạnh mẽ nào liên quan đến việc điều trị các tình trạng như Rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD), ăn uống không điều độ hoặc các bệnh tâm thần nghiêm trọng.

 

Rắc rối hơn, thậm chí một số nhà nghiên cứu đang bắt đầu gợi ý rằng, một tỷ lệ phần trăm bệnh nhân nhất định có thể gặp phải các tác dụng phụ tiêu cực từ việc thực hành thiền định, bao gồm cả sự gia tăng lo lắng, trường hợp trầm cảm nghiêm trọng, thậm chí là rối loạn tâm thần. Trong khi nguyên nhân của những tác dụng phụ này vẫn chưa giám định đầy đủ, rõ ràng là đối với một số bệnh nhân, thiền trị liệu khác xa với phương pháp chữa bách bệnh mà nó thường được tạo ra.  

 

Đưa cảnh giới Chánh niệm trở về

 

Là một sử gia về mối quan hệ giữa Phật giáo và Y học, tôi cho rằng thiền Chánh niệm có thể là một phương pháp thực hành có lợi ích cho nhiều người, nhưng chúng ta hiểu điều đó trong cảnh giới rộng hơn mà nó đã phát triển và đã được thực hành trong nhiều thập kỷ. Thiền Chánh niệm là một phần nhỏ trong một loạt các kỹ thuật và các quan điểm truyền thống Phật giáo đã phát triển và duy trì qua nhiều thế kỷ.

 

Trong một cuốn sách gần đây, tôi đã phát hiện lịch sử toàn cầu theo nhiều cách mà tôn giáo đã góp phần vào sự phát triển của y học trong hơn 2.400 năm qua. Truyền thống Phật giáo chủ trương vô số thiền quán chiếu, thực hành sùng kính, các phương pháp chữa bệnh bằng thảo dược, lời khuyên về chế độ ăn uống và cách đồng bộ hóa cơ thể con người với môi trường và các mùa, tất cả điều liên quan đến việc chữa bệnh.

 

Những ý tưởng và thực hành này có ảnh hưởng to lớn trên toàn thế giới cũng như trong các cộng đồng Phật giáo ở Hoa Kỳ. Ví dụ, những can thiệp đặc biệt như vậy đã rõ ràng trong đại dịch Covid-19, thông qua tổ chức từ thiện y tế của các tổ chức Phật giáo quốc tế lớn cũng như thông qua tư vấn sức khỏe được đưa ra bởi những vị cao tăng Phật giáo nổi tiếng thế giới như Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

 

Phật giáo luôn có rất nhiều điều để nói về sức khỏe. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất trong số nhiều đóng góp của nó là việc dạy rằng, sức khỏe thể chất lẫn tinh thần gắn bó mật thiết với nhau - không chỉ tương quan với nhau, mà còn với sức khỏe và sức sống của tất cả chúng sinh.

 

Thiền Chánh niệm được "Y liệu hóa" (Medicalized) là một vật tư y tế tự tạo ra hơn 1 tỷ USD mỗi năm, khiến một số nhà phê bình gán cho nó là "Người hướng dẫn Chánh niệm" (McMinduality). Nhưng Chánh niệm quay về cảnh giới Đạo đức Phật giáo, cho thấy rằng việc tu tập thiền định giúp giảm bớt căng thẳng cho chính chúng ta, hoặc để điều hướng hiệu quả hơn những thách thức của thế giới hiện đại.

 

Gần đây nhất, trong cuốn sách của tôi đã lập luận, Đạo đức Phật giáo đòi hỏi chúng ta nhìn lên khỏi chiếu nệm tọa thiền và để nhìn ra ngoài bản thân cá nhân của mỗi chúng ta. Nó yêu cầu chúng ta đánh giá cao cách mọi thứ được kết nối với nhau, các hành động và lựa chọn của chúng ta ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống, xã hội và môi trường của chúng ta. Sự nhấn mạnh, ngay cả khi chúng ta đang chữa bệnh cho bản thân mình, tôi luôn trở thành tác nhân của từ bi tâm, sự chữa lành và hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.

 

Tác giả Tiến sĩ Pierce Salguero, Giáo sư lịch sử Y học và Tôn giáo Châu Á tại Cao đẳng Abington thuộc Đại học Penn State, chuyên ngành Nhân chủng học và Khoa học Nhận thức, chuyên ngành Nghiên cứu Đông Á, chuyên nghiên cứu và ứng dụng Y học Cổ truyền Thái Lan (TTM), chuyên khám phá vai trò của Phật giáo trong việc truyền tải toàn cầu và tiếp cận kiến thức địa phương về sức khỏe, bệnh tật và cơ thể học. . .

 Cần Quan tâm nhiều đến sự Cường điệu của các Phương tiện Truyền thông Đại chúng 01

Tác giả Tiến sĩ Pierce Salguero

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: The Conversation)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 4435)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9380)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5897)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7250)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5899)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6488)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6519)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5651)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3990)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 4083)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]