Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài cảm nghĩ khi nghe HT Giới Đức giảng tại Tu viện Quảng Đức ngày 10/01/2016

18/02/202208:51(Xem: 5222)
Vài cảm nghĩ khi nghe HT Giới Đức giảng tại Tu viện Quảng Đức ngày 10/01/2016
HT Gioi Duc giang tai Tu Vien Quang Duc (20)HT Gioi Duc giang tai Tu Vien Quang Duc (24)Vài cảm nghĩ khi nghe lại bài Pháp Thoại của HT Giới Đức
 giảng tại Tu viện Quảng Đức, Melbourne, Australia ngày 10/01/2016
VẺ ĐẸP PHẬT PHÁP ( CHÂN – THIỆN – MỸ)
Do Hòa Thượng Giới Đức thuyết giảng
( Được Phật Tử Nguyễn Trường Thành ngụ tại Quảng Trị
đã ghi chép và được online trên Huyền Không Sơn Thượng Facebook 2 kỳ)

 

 

Phải công nhận với đà tiến triển kỹ thuật văn minh của vi tính, những gì ta có thể được tiếp xúc, thọ nhận  sẽ nhiều hơn  ngày trước ngàn lần ... khiến chúng ta đã có thể thay đổi dễ dàng theo sự tiến hóa của nhân loại và mở rộng sự hiểu biết với thế giới bên ngoài,  hơn thế nữa ký ức chúng ta cũng được lưu lại dưới dạng hình ảnh, những bài pháp thoại  và những trang cập nhật có thể truy cứu trong vài phút ...đó là lý do tôi ao ước được viết lại cảm nghĩ của mình khi nghe lại bài pháp thoại tuyệt vời từ 6 năm về trước tại Tu Viện Quảng Đức. Kính xin niệm ân tất cả nhân duyên đã cho tôi có cơ hội này ....

 

Trở về quá khứ ...còn nhớ vào những ngày cuối năm 2015 tôi đã có dịp chào đón Hòa Thượng Giới Đức tại phi trường Melbourne trong chuyến hoằng pháp của Ngài qua nhiều tiểu bang của Úc Châu nhưng đến ngày 10/01/2016 tôi vì đã booking trước cho chuyến du lịch New Zealand nên không có duyên phước được tham dự và vì thời gian du lịch quá dài nên tôi cũng không thể theo dõi gì tiếp theo và cứ thế dòng đời trôi theo con tạo ...

 

Mẹ tôi qua đời vào giữa năm sau đó  mang theo những hụt hẵng, nhưng giúp tôi càng nhìn rõ hơn sự vô thường của kiếp người....nên tôi càng tinh tấn  học những kinh căn bản nguyên thủy như kinh Pháp Cú, kinh Trung Bộ  và nghe chú giải nhờ những video trực tiếp từ những buổi học  giáo lý thuần túy với kỹ thuật văn minh hiện đại .

 

Tuy nhiên tôi cũng nhận được điều này, có nhiều khi bài pháp thoại đó dù chú tâm lắng nghe cũng phải đợi vài ba năm sau mình mới thực sự hiểu và thực hành đúng theo lời giảng đó là tùy vào mức độ tinh tấn,  công phu tu tập và  nhiều phương diện khác nữa chẳng hạn như hạt giống pháp đã vun trồng nhiều năm có được nẩy mầm chưa ?

 

Trong Chương Ba Pháp trong Kinh Tăng Chi có ghi “ Người thuyết pháp và người nghe pháp cần liễu giải nghĩa và liễu giải pháp”, và một khi người nghe pháp thoại, hiểu được pháp thoại thì  mới có hoa lòng nở ...Và trong nhiều kinh tôi thường được nghe :” Có hai người được phước tối thượng – Người thuyết pháp tinh thuần, chăm chỉ và người nghe pháp tinh thuần chú tâm “,

 

Phước duyên thay, gần đây  Hòa Thượng Giới Đức đã bi mẫn cho phổ biến online  bài pháp thoại tuyệt vời của 6 năm về trước trong đó đã hàm chứa  sự thông tuệ trong mỗi ý ngữ, trong sự tinh nhuần về Vi Diệu Pháp kể cả bao hàm Duy Thức tiềm tàng và đã được  Phật Tử Nguyễn Trường Thành, người có công ghi chép lại toàn bộ buổi thuyết giảng về “ Vẻ Đẹp Phật Pháp” mà Giảng Sư đã cho rằng bất cứ Tông, Hệ phái nào trong Đạo Phật cũng hướng đến Chân, Thiện, Mỹ ....

 

Trộm nghĩ tôi cần  trở về với định nghĩa “Chân”, ‘Thiện”, ‘Mỹ” theo bài pháp thoại và theo sự hiểu biết thông thường... Có nghĩa là mọi người cần có sự chân thật, hướng về nẻo thiện và đạt được thẩm mỹ nơi tâm mình, đó là ba yếu tố để đạt được mục tiêu chánh : sống hạnh phúc trong thế gian.

 

Thật ra ba thuật ngữ Chân, Thiện, Mỹ rất quen thuộc trong văn chương, giáo dục nhưng lại có nội dung vô cùng phức tạp, có người cho rằng “Chân” thuộc về nhận thức luận, trong khi “Thiện” thuộc phạm trù đạo đức học còn “Mỹ” thuộc về thẩm mỹ học .

 

Thế nhưng bài pháp thoại tuyệt vời làm sao khi được Giảng Sư đề cập rất rõ ràng trong đạo Phật, “Chân” đây là Chân Lý, là Sự Thật mà chỉ có người có trí tuệ mới thấy được.

 Theo bài pháp thoại nhờ có thấy rõ chân lý ta mới có thể có hướng đi đúng, lập tâm, lập hạnh đúng và sẽ không còn tham, sân, si, phiền não chi phối .Trong khi  tôi được biết Trí Tuệ là kết quả của Sự Độc Cư ( Thân ẩn cư là biết dùng thời gian sống với chính mình và Tâm ẩn cư là luôn có chánh niệm tỉnh giác không suy nghĩ điều vô ích).

 

Cũng như  có nhiều danh ngôn đề cập  về chân lý như:

- “Đến một lúc nào đó ta phải thừa nhận  một chân lý này – Cuộc đời rất ngắn ngủi”

-Trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Phật chỉ dạy Tu Bồ Đề rằng :”Tất cả những người tìm cầu Chân Lý nên phát khởi chủ ý Thanh Tịnh và trong sáng và Tâm không trụ ở bất cứ chỗ nào”.

-Những ai bàn cãi hay tranh luận mà không hiểu chân lý sẽ bị lạc trong hình thức của tri kiến tương đối vì cố chứng minh cái Thấy của họ.

-Những ai tìm cầu yêu chân lý và luôn luôn tư duy về chân lý sẽ được chân lý hộ trì.

-Trong tất cả ngàn sai biệt của các loại thuốc thế gian không có thuốc nào như thuốc chân lý, hãy uống thuốc này.  

  

Và HT Giới Đức đã kết luận theo Duy thức Học như sau :

-       Chân phải xem như cái Gốc, cái Thể

-       Thiện và Mỹ chỉ là cành nhánh hoa trái, là Tướng, Dụng để chúng ta sống trong đời’

 

Cũng như về Thiện, ta thường được học : Điều thiện giúp mọi người sống có lương tâm lương tri . Chính cái Thiện tạo ra con người tính độ lượng bao dung, tha thứ, thông cảm, biết che chở, đùm bọc và cưu mang . Cuộc sống luôn tuôn chảy từ sâu thẳm trái tim của mọi người .

Tôi cũng đang học hỏi  một nghệ thuật sống với 30 điều đắc nhân tâm , để có tư cách vững vàng, biết cách ứng xử trên đường đời và cũng đang tu tập mười điều thiện của Đạo Phật, và theo kinh Tương Ưng Bộ:

“ Thế giới được hiểu theo cách của Tâm

Thế giới được hành động theo cách của Tâm

Tất cả những điều tốt, xấu

Trên thế gian hiện hữu theo cách của Tâm’

 

Có nghĩa là Tâm là Thể của muôn Pháp, muôn Pháp lại là Dụng của Tâm và tất cả Pháp là Tâm vậy. Thì trong bài pháp thoại đã  nhắc đến yếu tố Từ Bi luôn luôn đi kèm với Trí tuệ để sống giữa cuộc đời, có nghĩa là hãy để cuộc sống tự hiển hiện qua một trái tim thuần khiết bằng cảm nhận với đất trời, quý trọng sinh linh từng khoảnh khắc.

 

Mà Phước Đức là gốc của Bát Nhã . Do nhân duyên phước đức mà sau đó ta sẽ được Từ Bi và Chánh Kiến

Phước Đức của người tu cũng đến từ ( Tự điều phục do bố thí- Tự thanh tịnh do Trì Giới-Tự độ thoát do thiền định).

  

Khi nói về Mỹ tính ( cái đẹp) HT Giới Đức đã dùng Lịch Sử Phật Giáo để giới thiệu vì sao Đạo Phật đã đi vào Nhật Bản và khi đến quốc độ này Đạo Phật đã linh động, biến hóa và hòa nhập để phù hợp với văn hoá của xứ sở hoa Anh Đào và trở thành một Thiền Zen mang đậm nét nghệ thuật với kiếm đạo, trà đạo, hoa đạo, kiến lập vườn cảnh cùng phong cách sống .

 

Nếu nhìn theo xã hội đời thường thì con người dù có chân thật, có thiện,  mà không có thẩm mỹ thì cuộc sống rất khô khan chưa gọi là toàn bích, cái đẹp của vóc dáng hình hài phải đi song song với cái đẹp của đức hạnh của nết na . Nếp sống tâm linh thường hiển bày qua lời nói, khả ái, quy kính, nhẹ nhàng , cử chỉ dịu dàng thân thiện qua hành động yêu thương giúp đỡ thì Hoa Chân Lý trổ bông, và Hoa Từ Bi bừng nở  .

 

Rồi... tiếp theo Giảng Sư trở lại vấn đề tinh yếu, rốt ráo mà Đạo Phật chú trọng nhất đó là sự giải thoát nội tâm ( phiền não chướng ) và giải thoát những thắc mắc của lý trí ( Sở tri chướng) để giới thiệu Chánh Niệm và Tỉnh Giác đại điện cho con đường Thấy Khổ và Diệt Khổ, và từ đó dẫn dắt ta về cái đẹp của một vườn Thiền với Tâm tỉnh lặng khi đó chỉ còn nghe hơi thở của chính mình, hơi thở của cỏ cây , hoa lá, vạn vật ...

 

Thử đặt mình vào vị trí người thính pháp vào 6 năm trước, có lẽ bài pháp thoại này quá cao so với trình độ đại chúng lúc bấy giờ, qua những thí dụ về nghệ thuật cắm hoa và và cách sử dụng Rác để giới thiệu một lần nữa cái tâm với lòng từ ái cực thuần hầu nhận ra rằng trên cõi đời này chẳng có ai mà không hữu dụng, phải thấy được những phẩm tính cao đẹp của mỗi mỗi con người mà Giảng Sư kết luận là Cái Đẹp , Cái Mỹ học trong tư tưởng Phật Giáo hay Tư tưởng Thiền muốn hiến tặng cho thế giới.

 

Lời kết:

 

Tôi tìm thấy những điều cần ghi nhớ cho cuộc sống của  người mới bắt đầu chập chững vào đường đạo theo dấu chân của những bậc hữu học đi trước để nhận ra rằng Thiền là nghệ thuật sống tuyệt vời và là nghệ thuật kiềm chế che giấu được những ảo tưởng của bản ngã khi giao tiếp ứng xử. Thiền là bình tĩnh trước cuộc đời dù rằng ngoại cảnh có diễn ra cho ta trong bất cứ trạng thái nào cũng không làm xao động đức tánh nội tâm của ta như vững chãi, tự tin, hạo khí và có bản lãnh.

 

Thiền theo Vipassana là cái trôi chảy , cái đang là mỗi người phải đọc lấy, phải chiêm nghiệm phải quay vào trong Tâm để nhìn ra bộ mặt thật của chúng như  Hòa Thượng Viên Minh đã dạy :

 

Duyên sanh Pháp như thị

Mắt bụi khó nhìn ra

Khi trí tuệ chiếu sáng

Mới thấy Pháp đang là

 

Và thấy tất cả những gì trong cuộc sống ( mọi việc đang diễn ra ) mà ta chứng kiến đều đúng với tiến trình của nó.

 

Với Thiền,

Gió thổi qua cành trúc, gió qua rồi, Trúc không buồn gọi chi tiếng gió

Nhạn bay qua đầm, nhạn đi rồi, đầm cũng không buồn lưu ảnh Nhạn

 

Để rồi người học Thiền phải thấy được cuộc sống chúng ta là một chuỗi các hiện tượng nhân quả xảy ra theo các vận hành tự nhiên ( cho dù ta có muốn hay không cũng không thể nào đi ngược lại với sự thật tự nhiên ) nhưng cũng cần tinh tế và nhạy bén để không gieo nhân xấu cho tương lai như hiện giờ ta đang phải giải quyết những gì đã xảy ra trong quá khứ .  

        

Kính đa tạ Hòa Thượng Giảng Sư với những lời dạy mà nếu 6 năm về trước con không thể nào cảm nhận, nhưng giờ đây một niềm hỷ lạc vô biên đã đến khi xem được những lời tâm huyết này “ Người Học Thiền phải thấy được cái thiên biến vạn hóa của thiên nhiên vạn vật .

Cái thế giới mà ta đang sống với bao buồn, vui, xấu, đẹp...đều do chính tâm ta tạo nên, nó chỉ hiện lên bởi các giác quan và nhận thức của chính chúng ta” .

 

Thiên nhiên vạn vật tuy cũng vô thường vô ngã nhưng chúng không hề Khổ, chỉ có chúng ta do thêm vào ba cái giận, bốn cái hờn, năm cái thương và ghét mà vương lấy cái Khổ trầm luân .Đây là Sự thật muôn đời mà người học Phật nào cũng phải thấy biết và liễu ngộ .

 

Con cũng tự nhắc mình rằng : Nếu một người trong quá trình tu tập đã đạt được tiêu chỉ Chân, Thiện, Mỹ, thì người đó đã có cuộc sống hạnh phúc . Và đó cũng là chân lý hiện sinh mà mỗi người có thể trải nghiệm ngay trong đời sống hiện tại này. Chân, Thiện, Mỹ không dành riêng cho bất cứ một ai mà trong đó yếu tố Nhẫn nại Lắng nghe,Thấu hiểu, Cảm thông, Hòa nhã sẽ giúp chúng ta hóa giải tất cả phiền não .

 

 Trong Kinh Tăng Chi Bộ có dạy:

Người có trí tuệ và sống cuộc đời từ ái bắt đầu biết Thế Giới

Người ấy sẽ đi đến tận cùng của Thế Giới

Và lúc ấy Y sẽ không ham muốn thế giới này hay bất cứ thế giới nào khác.

   

Thành kính tri ân người ghi chép và Giảng Sư đã cho con những giây phút tuyệt vời và rất an lạc khi nhìn vào bên trong mình, nhận rõ lại tâm nhận thức của mình và tự sửa mình cho đúng theo lời dạy của Phật do giảng Sư đang giáo truyền lại .

 

Kính trân trọng

Melbourne 17/02/2022

Huệ Hương  



HT Gioi Duc giang tai Tu Vien Quang Duc (19)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2020(Xem: 5606)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta. Bởi con người sống với vọng tâm nên tạo ra dòng lưu chuyển sinh tử khổ đau của chúng sinh hữu tình với những quả báo sai biệt. Tất cả đều có nguồn gốc từ nhân duyên vọng tâm thiện ác. Chân tâm không sinh diệt chính là dòng hoàn diệt, cho nên chấm dứt được khổ đau, sinh tử tạo thành quả báo cũng như các quốc độ thù thắng, vi diệu, bất khả tư nghì của các bậc hiền thánh. Như vậy, phàm phu là do sống với vọng tâm thiện ác vô thường, biến hoại, sinh diệt; còn những ai sống hay an trú trong chân tâm rỗng lặng không sinh diệt thì trở nên là những bậc hiền thánh. Điều này là một chân lý.
01/10/2020(Xem: 5033)
Theo nhiều cách, khi thực hành Phật giáo cho phép chúng ta nhìn thấy những phần tiềm ẩn của bản thân. Giống như một vận động viên thể hình uốn dẻo các cơ của mình trong gương, chúng ta quan sát thể chất và tinh thần của mình từ mọi góc độ, và ghi nhận những gì ở đó. Đôi khi chúng ta thích những gì chúng ta thấy. Và đôi khi chúng ta không thích. Tuy nhiên, chính trong những khoảnh khắc mà sự phản chiếu của chúng ta khiến chúng ta thu mình lại, chúng ta sẽ tìm thấy cơ hội để phát triển.
01/10/2020(Xem: 5081)
Mấy năm qua, tôi đã quyết định từ bỏ hầu hết tài sản thế gian của mình, và vui sống trong một trang trại. Có nhiều lý do giải thích tại sao tôi đưa ra quyết định này, từ trần tục đến tâm linh. Nhưng cải giải thích đơn giản nhất là nói rằng tôi muốn “Tự do”. Tôi cảm thấy bị vướng mắc trong một công việc của công ty không được như ý. Tôi xúc động trước sự tấn công dữ dội của các công ty phương tiện truyền thông liên tục nói với tôi rằng, tôi chỉ có một lần mua hạnh phúc. Và tôi khao khát có cơ hội thực hành Phật pháp trong hòa bình.
01/10/2020(Xem: 4988)
Hội đồng Lập pháp Sikkim đã thông qua dự luật ngày 21 tháng 9 năm 2020, để thành lập một ngôi trường Đại học Phật giáo ở bang đông bắc Ấn Độ. Được biết với tên gọi Đại học Phật giáo Khangchendzonga (KBU), cơ sở này sẽ trở thành trường Đại học tư thục Phật giáo đầu tiên tại Ấn Độ, và là trường Đại học đầu tiên tại Sikkim do người dân bản địa Sikkim sáng lập.
01/10/2020(Xem: 5368)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 5447)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5419)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4575)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5337)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5614)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]