Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chớ Coi Thường Tụng Kinh, Niệm Phật, Nghe Pháp

10/02/202210:09(Xem: 11204)
Chớ Coi Thường Tụng Kinh, Niệm Phật, Nghe Pháp

Niem Phat

Chớ Coi Thường Tụng Kinh, Niệm Phật, Nghe Pháp
 

Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.

Ngoài ra, Đạo Phật khi vào bất cứ quốc gia nào cũng khế hợp với văn hóa truyền thống vốn có trước đó của dân tộc đó. Lối tu của Phật tử Việt Nam khác với lối tu của Phật tử tại các quốc gia theo Nam Tông như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Căm Bốt. Và hiển nhiên lối tu tập của Phật tử tại các quốc gia Phương Tây và Hoa Kỳ cũng khác với lối tu của Nam Tông và Bắc Tông. Điều đó không có gì xa lạ vì văn hóa, cuộc sống và lối suy nghĩ của họ khác với Đông Phương. Căn cơ của Tây Phương thích hợp với lối tu Thiền và Mật Tông điển hình là Đức Đạt Lai Lạt Ma.    

Tuy nhiên không phải tất cả người tu Thiền đều thành công. Cũng có nhiều vị tu thiền “tẩu hỏa nhập ma” tức mắc bệnh tâm thần. Nhưng có rất nhiều vị tu theo pháp môn tụng kinh, niệm Phật lại đắc quả. Xin nhớ cho có rất nhiều thiền sư lỗi lạc đắc đạo trong quá khứ đều tụng kinh, niệm Phật. Trong pháp hội ở Núi Kỳ Xà Quật, Đức Phật dạy Phật tử Diệu Nguyệt như sau:

Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp niệm Phật. Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cưc Lạc.” Và Đức Phật nhấn mạnh thêm “Đây là môn tu Đại Oai Lực, Đại Phứơc Đức.” (2) Ngay các bậc thượng thủ như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều niệm Phật. Còn thiền sư Bách Trượng (720-814) cũng phải nhận định rằng “Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất.” 

Là người học Phật, tôi kính trọng pháp môn tu Thiền nhưng cũng rất tin tưởng vào pháp môn tụng kinh, niệm Phật và nghe pháp. Pháp môn tu hành truyền thống này của người Việt Nam đã có gần hai ngàn năm nay thật vi diệu. Dùng trí tuệ mà suy xét chúng ta thấy trong tụng kinh có cả Giới-Định- Huệ:

- Trước khi tụng kinh, chư tăng ni tại chùa hay Phật tử tại gia đều đánh răng súc miệng sạch sẽ, quần áo chỉnh tề, cử chỉ trang nghiêm cung kính. Mọi động tác đều nhẹ nhàng, không hấp tấp, vội vã. Nhang đèn được thắp lên tạo thành một không khí thật trang nghiêm. Theo tôi nghĩ đó là Giới. Giữ thân trang nghiêm là giữ giới. Và cử chỉ trang nghiêm chính là Giới.  

- Trong khi tụng kinh, khi chú tâm hết vào lời kinh, tiếng chuông, tiếng mõ thì không còn vọng niệm nảy sinh. Đó là Định.

- Tụng kinh và ghi nhớ lời kinh, kinh thấm vào đầu óc mình lúc nào không hay, nhờ đó trí tuệ mở mang. Đó là Huệ.

Vậy xin chớ coi thường việc tụng kinh.

- Còn công năng của niệm Phật xin đọc bài viết “Sự Màu Nhiệm và Nét Đẹp Của Niệm Phật” có đăng trên Thư Viện Hoa Sen.

- Còn về nghe thuyết pháp:

Trong rất nhiều pháp hội, nhiều vị chỉ nghe Phật thuyết pháp không thôi mà chứng quả. Nghe giảng sư chân chính thuyết pháp, giảng dạy cách tu tập hay những lời Phật dạy là phước báu vì chủng tử lành theo nhĩ căn thấm vào A Lại Da Thức lúc nào không hay. Ngoài công việc mưu sinh, trách nhiệm trong gia đình chu toàn. Nếu có thời giờ nên tham dự các buổi thuyết pháp thay vì tham gia vào các hoạt động vô bổ. Nghe pháp trên Youtube hay nghe băng cũng tốt nhưng không bằng trực tiếp nghe pháp trong các pháp hội. Bầu không khí trong các pháp hội khác hẳn nghe pháp bằng các cách nói trên. Sự đông đảo của đại chúng, sự chứng kiến hoặc chứng minh hộ trì của các tăng ni khiến cho buổi thuyết pháp long trọng khác thường. Nghe pháp là cơ hội tốt làm quen thiện tri thức hay các người cùng sở thích với mình. Bạn đạo rất quan trọng trong việc tu hành và giúp giữ gìn tâm Bồ Đề kiên cố.

Vậy xin quý đạo hữu nào đang tu hành theo pháp môn truyền thống của đạo Phật Việt Nam bao gồm tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp xin chớ nao núng. Xin chớ ngã lòng hay “Đứng núi này trông núi nọ.” Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật dạy các bồ tát rằng phải chọn pháp môn phù hợp với mình mà tu bởi vì căn cơ mỗi người mỗi khác và sở nguyện mỗi người mỗi khác.  Hãy chọn một pháp môn thích hợp và quyết tâm tu hành theo pháp môn đó, chắc chắn sẽ thành công. Hiện nay tại Trung Hoa có pháp môn tu hành rất khắt khe giống như Luật Tông. Ai dám đứng ra tuyên bố rằng tu Thiền Chánh Niệm chứng đắc, giải thoát hơn Luật Tông? Và ai dám nói pháp môn chẳng tu thiền gì cả mà chỉ “Đối cảnh vô tâm” (Ưng vô sở trụ) của Vua Trần Nhân Tông thua kém Thiền Chánh Niệm hay Thiền Vipassana? Theo tôi nghĩ, “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà Đức Phật dạy Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề trong Kinh Kim Cang chính là chỗ chứng đắc của “Như Lai tối thượng thừa thiền” mà không có bất thứ một thứ thiền nào qua nổi. Đối Cảnh Vô Tâm là tâm Phật, tâm như như bất động. Còn Thiền Chánh Niệm hiện đang phổ biến ở Hoa Kỳ và Tây Phương vẫn chỉ là thiền của chúng sinh còn ngụp lặn trong sinh tử luân hồi.



***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4474)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5343)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5552)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8684)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6570)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6292)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4587)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9841)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6308)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7900)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]