Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp, Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết

30/12/202107:26(Xem: 4624)
Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp, Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết


Su San Nhien

Ân Phước thọ nhận từ sự nghe Pháp

Kính Tri Ân Quý Giảng Sư Biện Tài Nhạo Thuyết

Kính chia sẻ món quà Chánh Pháp được trao tặng qua bài kinh Niệm Xứ(bài thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) được Giảng Sư Pasado Sán Nhiên trình thuyết trong 18 giờ đồng hồ với 7 video từ năm 2017 tại Virginia / USA.

 

 

Lời nói đầu

Kính dâng lòng thành kính tri ân đến những vị Giảng Sư đã từng biên chép, phiên dịch, thuyết giảng về bài Kinh Niêm Xứ (bài thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) đã được Đức Thế Tôn một lần duy nhất thuyết giảng tại đô thị Kamassadhamma của xứ Kuru (1) và sau đó một nửa người dân xứ này đã đạt quả Bất Lai và một nửa còn lại khi vãng sanh đều được về Bắc Câu Lô Châu để thọ hưởng sự an vui tịnh lạc với tuổi tho 1000.

Đặc biệt kính đảnh lễ Giảng Sư Pasado Sán Nhiên với kinh nghiệm từ bộ thứ bảy về Phát Thú trong Kinh Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma) đã truyền trao tất cả tâm huyết khi thuyết giảng Kinh Niệm Xứ thật thâm diệu trong 7 video dài 18 giờ đồng hồ....Và TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng đã trao chìa khóa vàng “Trong cái thấy nghe chỉ là cái thấy nghe với sát na đầu tiên “ làm duyên giúp con tìm lại những đam mê và hứng thú khi nghiên cứu lại những bài kinh nguyên thủy căn bản mà nhiều năm qua con cho là khó quá và đầu hàng . Kính đa tạ Thầy đã kiên nhẫn ôn nhắc nhiều lần, nhờ vậy mà con đã quen với sự trình pháp, chú tâm theo dõi và đã thâm nhập hơn, thấu hiểu hơn... hương vị tinh túy từ nhừng bài pháp thoại đã được Thầy dành trọn tâm huyết mình vào đó.

 Kính bạch quý Giảng Sư...

Nhiều năm trước, học kinh khó mà liễu nghĩa!

Vì chưa gần Thiện Tri Thức chỉ dạy tận tường

Biết căn cơ...chuyên hành thiện tạo phước ...tư lương

Đại duyên đến ..cơ hội nghe hàng trăm pháp thoại!

 

Kính đa tạ quý Giảng Sư...

Tập khí nhìn ra ...quyết tâm CHẬM LẠI

Cần tư duy, hiểu rõ mới ổn định tâm linh

Diệu lý diễn bày ...phát khởi kiên cố niềm tin

Sầu não, khổ ưu...ơ hay ..

Sao dễ dàng tan đi... thường nhật !

 

Kính tri ân quý Giảng Sư...

...giúp con thọ nhận lời dạy của Phật

Như Pháp tu hành ...kết hợp VĂN, TƯ

Không Tâm phân biệt..tìm pháp môn phù hợp căn cơ

Cứu cánh giải thoát ...được cũng cố và vững mạnh!

 

Thành kính đảnh lễ quý Giảng Sư tán dương...ngời phạm hạnh!

( Thơ HH)


Nhân dịp đầu năm 2022 kính chúc quý Giảng Sư được nhiều sức khỏe và tịnh lạc, thêm vào đó mọi chuyến hoằng pháp hoặc Phật Sự hoàn thành  viên mãn.

Kính trân trọng,

 

.   

Trước khi ghi lại những tinh túy được thọ nhận qua bài KINH NIỆM XỨ mà người viết cho là ân phước từ Đức Thế Tôn muốn trao tặng cho những người con của Ngài được sanh ra từ kim khẩu Ngài, xin được mạo muội ao ước bài viết này sẽ là món quà để gieo duyên dến tất cả bạn hữu đang may mắn gìn giữ ba viên ngọc quý thù diệu ( Phật-Pháp-Tăng ) .

Nào ...chúng ta đi vào định nghĩa tên kinh nhé ,

Kinh Niệm Xứ dịch từ Satipatthana Sutta mà trong đó ;

  • Kinh=Sutta = Lời Phật dạy
  • Niệm=Sati= Nhớ nghĩ không quên
  • Xứ=Patthana= nền tảng, nguồn gốc phát sinh từ những duyên hệ, duyên sinh( xin mở ngoặc Patthana còn là bộ kinh thứ 7 trong Vi Diệu Pháp đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi khi viếng thăm Thánh Mẫu Ma Ya, và đại ý bộ Phát Thú này nói về mãnh lực của 24 loại duyên chi phối nghiệp báo ta qua Thân, khẩu, Ý).

Và toàn bộ ý nghĩa tên kinh Niệm Xứ có thể diễn bày như sau “Đây là một phương pháp quán dựa trên 4 nền tảng (THÂN-THỌ-TÂM-PHÁP) để diễn bày tất cả sự tương sinh liên hệ ảnh hưởng đến nghiệp báo ta để từ đó nhận ra vạn pháp trên thế gian đèu có thực tướng Vô Thường-Khổ- Vô Ngã mà ghi nhớ không quên”.

Và cũng xin mượn lời của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trong toát yếu về Trung Bộ Kinh được Việt dịch từ HT Thích Minh Châu như sau;

“Đây là một trong những bài kinh quan trọng nhất và đầy đủ nhất mà Phật dạy về Thiền quán . Phật nhấn mạnh đến sự phát triển Tuệ quán qua 4 đề mục THÂN-THỌ-TÂM-PHÁP mà khởi đầu Phật dạy rằng ;”Bốn niệm xứ là con đường độc nhất, thẳng tắp nhất đưa đến Thanh Tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, đoạn trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí và thực chứng Niết Bàn ”.

Cần biết 4 niệm xứ ấy là ;

- Quán Thân trên Thân qua 14 bài tập từ cách quán trên hơi thở, quán 4 oai nghi,  chánh niệm tỉnh giác trong mọi hoàn cảnh, quán bất tịnh, quán tứ đại, và 9 pháp quán về tử thi qua các giai đoạn tan rã.

- Quán Thọ trên Thọ một bài tập.

- Quán Tâm trên Tâm một bài tập nhưng cần tuệ tri để thấy khi nào tâm có tham, sân, si hoặc không có, phải thấy đươc khi nào tâm tán loạn, quảng đại, thâu nhiếp, hữu hạn, vô thường, có định tĩnh , không định tĩmh, có giải thoát , không có giải thoát.

- Quán Pháp trên các Pháp gồm 5 bài tập qua các phân đoạn về 1-Năm triền cái 2-năm thủ uẩn 3-sáu nội ngoại xứ 4- Thất giác chi 5-Tứ thánh đế.

Và cuối cùng Phật nhấn mạnh rằng; Không cần phải 7 năm, 7 tháng, 7 tuần, có thể chỉ cần 7 ngày..... nếu vị hành giả ây chịu khó tu tập 4 niệm xứ này thì vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây( một là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại đạt vô sanh,  nếu còn hữu dư y thì chứng quả Bất Hoàn.)

 

Nhưng điều tôi tâm đắc nhất khi được biết vào thời ấy người dân xứ Kuru chưa hề biết đến Thiền Minh Sát Tuệ ( còn gọi là Thiền Vipassana) mà sau nầy Ngài Mahasi đã dùng 21 bài tập này chuyển thành 64 bài tập mà dạy cho thiền sinh Tây Phương cho đến ngày nay...

Tôi cũng được nghe rằng người dân xứ Kuru thời ấy luôn chánh niệm tỉnh giác trong mọi thời mọi lúc mà thôi và HT Viên Minh cũng thường chỉ dạy rằng Thiền Định và Thiền Quán hoàn toàn giống nhau đến 75%. vì người tu thiền định khi nhìn thấy được thực thể của Pháp thì hoan hỷ và an trụ trong ấy  khi thiền quán đi thêm bước nữa là việc nên làm phải làm và không muốn trở lại trạng thái đó... vì thấy được thực tướng của vạn pháp chỉ là VÔ THƯỜNG, KHỔ ĐAU, VÔ NGÃ .

 

Những tinh túy thu thập từ 7 bài giảng của Sư Sán Nhiên (2)  

1-   Đạo quả không phải là không có mà tại vì chúng ta không chịu kiên trì thực hành mà thôi.

 

2-   Thiền Minh Sát Tuệ ( chứa đựng nội dung của Chánh Niệm-Quán Niệm -Niệm Tuệ và Tuệ sẽ phát sinh nhờ Tâm định tĩnh trên mọi sự vật ..có thể gọi đó là tỉnh giác hay biết mình ). Như vậy nội dung Minh Sát gồm 2 phần;

-Chánh Niệm là an trú vững chãi trong giờ phút hiện tại.

-Quán Niệm là quan sát một cách sâu sắc vào trong thực thân của Thực tại  với mục đích nhận ra sự diễn tiến của THỰC TẠI ĐANG LÀ bằng một cái tâm định tĩnh ,

 

   3-Tất cả pháp môn tu chỉ là phương tiện nhưng phải đạt được đến cứu cánh qua con đường Đạo đế, bằng cách tu tâp 37 phẩm trợ đạo và nhất là Bát Chánh Đạo để diệt trừ kiết sử, triền cái và thói quen, tập khí do bản ngã tạo ra từ vô minh, ái dục, chấp thủ .

 

  4-Người học đạo phải thấy ra pháp nào là pháp thường nhiên và pháp nào do bản ngã ảo tưởng tạo nên.... để giải nghệp, chuyển hóa nghiệp chứ đừng tạo thêm nghiệp qua Thân, Khẩu, Ý nữa.

 

  5-Nghiệp không thể đong, đo, cân, đếm mà ta chỉ cứ tiêp tục làm thiện , làm hết năng lực, đừng nghĩ suy.... phải cần cho ai biết,

  6-Nhớ câu” bồ tát sợ nhân chúng sinh sợ quả “để biết rằng mọi nguyên nhân đều từ chữ “muốn” mà ra... chính cái ái dục này đã lôi cuốn ta vào sinh tử luân hồi.

  7-Đời sống tu tập của ta thường khi tỉnh, khi mê do đó cần phải luôn biết mình gọi là tỉnh giác mà tỉnh giác phải xuyên qua 4 phần sau đây( 1-điều ấy có thích hợp với mình không? 2-Có thích nghi với hoàn cảnh hiện tại mình không?3-việc muốn làm có đủ điều kiện để làm không ?4-lộ trình tâm phải kiên cố , tôi biết điều ấy rồi ...tôi sẽ không còn theo đuổi nữa).

Biết mình...là điều  thật sự cần thiết để khi nào ta sẽ cắt được những điều cần nên tránh (DO and DON’T).

Còn rất nhiều điều tinh túy khác nhưng bài viết có giới hạn kính xin được mượn lời Thiền Sư Buddhadasa, Viện chủ của Vườn Thiền Suan Mokkhabalarama (Sức Mạnh của Giải Thoát) đã nói lên được thêm những gì trong bài giảng ngầm chứa đựng cùng yếu nghĩa như sau ;

--Thuyết giảng Pháp khôn khéo nhất là chỉ ra cách phòng bịnh tốt nhất.

--Ai ai một khi nếu có thể hiểu được nguyên nhân của Khổ để diệt Khổ thì chắc chắn sẽ đạt được niềm hạnh phúc vĩ đại như Đức Phật .

---Dù cho bạn không biết Vô Ngã là gì chỉ cần biểu lộ bằng Tánh KHÔNG ÍCH KỶ và với khái niệm đơn giản đó, bạn sẽ tìm được tự do của sự tỉnh thức và hạnh phúc của Phật .

---Hành Thiền Vipassana là lối tu nhìn rõ được thực tại .

---Muốn thực hành lời dạy Phật, ta phải vừa là một nhà bảo thủ vừa là một nhà cấp tiến.

--Đừng để ý tới sự phân biệt hẹp hòi giữa Phật Giáo Theravada và Phật giáo Đại thừa mà phải thấy rằng cốt lõi của những lời Phật dạy đều được tìm thấy trong tất cả tông phái chân chánh và sống động.

 

Lời Kết:

 

Kính bạch các Giảng Sư,

Kính thưa các bạn hữu,

Qua bài kinh Niệm Xứ này người viết đã tư duy cho riêng minh rằng; ” Thực hành Giáo Pháp là thi hành nhiệm vụ của mình với một thiện tâm mà không có cái ta trong đó, miễn là với tất cả khả năng của mình và lúc nào cũng hay biết rằng điều đó sẽ mang lại lợi ích cho mình và cho người “ . Và cốt tủy của lời Phật dạy bao giờ cũng mang một ý nghĩa là ; “Hãy sống trong chánh niệm và tỉnh giác mọi thời mọi lúc, mọi nơi trong sự hiểu biết và mở rộng tình thương mà không đố kỵ, chấp thủ “.

 

Riêng với bài giảng của Giảng Sư Sán Nhiên con đã học được từ Ngài  rằng “ Trong Đạo và Đời luôn cần có một sự ghi nhớ chính xác vào mỗi công việc đang xãy ra và đó gọi là Niệm Xứ”.

Và hai yếu tố cần thiết để có Niệm Xứ chính là:

1-   Yếu Tố Trực Tiếp : Làm chậm lại trong tất cả mọi hành động của mình trong thân, khẩu, ý và phải nhớ cho thật đúng và chính xác,  đừng nhớ mang máng vì đấy là hình thức của Tưởng trong khi Niệm là nhớ nghĩ không quên.

2-   Yếu Tố gián tiếp ; Luôn thân cận với những người có Chánh Niệm .

Con cũng kính xin tri ân Giảng Sư Sán Nhiên đã nhiều lần nhắc nhở rằng cấu trúc theo số thứ  tự của các bài kinh trong Trung Bộ Kinh là một sự siêu tuyệt từ bộ nhớ siêu việt của Ngài A Nan(  nhất là bài 1 đến bài 16 ) dù cho qua bao lần kết tập kinh điển không ai có thể sửa đổi.

Kính xin được đúc kết vài điều được học với vài vần thơ thô thiển...

 

Kính đa tạ Giảng Sư,

.....với 18 giờ thuyết giảng bài kinh NIỆM XỨ

Bài thứ 10 theo thứ tự trong Trung Bộ Kinh,

Tuyệt vời cấu trúc ...khéo huấn luyện tâm linh

Diệt lậu hoặc, không sợ hãi, gột rửa nhiễm ô...

....dồi trau Chánh Tri Kiến !

 

Đấng Thiện Thệ, Ngài giới thiệu ...

...THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP để niệm niệm

Nhớ nghĩ không quên ...Thức tướng Pháp đã tìm ra

Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Đau..có Ta, của Ta !

Đây con đường độc đạo hãy tiến bước...

....Sẽ thẳng tắp, đạt chánh trí, thù thắng!


Kính tri ân Giảng Sư...

...cách trình bày diệu lý...hình thức ban tặng

Chánh Pháp hy hữu khiến người hoan hỷ thực hành

Sống trong Pháp Bảo ..an lạc tự nội phát sanh

Hiểu Đạo rồi..quyết học theo Bát Chánh !

Kính ngưỡng Giảng Sư...điều tâm đắc nhất

“MỌI PHÁP MÔN ...chỉ PHƯƠNG TIỆN,

....nhưng chung CỨU CÁNH”

Niết Bàn đừng đi tìm ...Thực Tại đang là

Xin quay về nương tựa Tam Bảo...tháng ngày qua

Ân đức trao truyền giáo lý Phật...kính ghi tạc dạ !

 

Melbourne 31/12/2021

Huệ Hương

 

Chú thích:

(1)  Xứ Kuru là quốc độ nằm tại Bắc Ấn ngày nayddax được xếp chung vào thủ đô Dehli. Hiện vẫn còn di tích với bia đá do vua Asoka dựng lên đánh dấu nơi Đức Phật giảng bài kinh Niệm Xứ. Đặc biệt tên đô thị của Xứ này là Kaamassadhamma có nghĩa là “ Nhờ Pháp bảo mà thấy ra được những duyên sinh duyên hệ của nghiệp báo”.

(2) Sư  Sán Nhiên là hội viên của Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy dưới sự chứng nhận của Cố Tăng Thống Đại Trưởng Lão Thitasila Giới Nghiêm ( Sư Phụ của HT Viên Minh và Giới Đức ). Sư đã du học và tham dự các khóa thiền chuyên sâu tại Thái Lan và Miến Điện với các danh sư như Thiền Sư Đại Trưởng Lão U Kundala,Thiền Sư  Đại Trưởng Lão U Janaka, Thiền Sư Đại Trưởng Lão U Pandita cũng như đã tham dự các  hội nghị Phật Giáo quốc tế ,Sau 20 năm định cư trên đát Hoa Kỳ, sư đã tiếp tục hoằng pháp tại các tu vện trên nhiều tiểu bang . Sư là ủy viên của Phân Ban Chuyên Môn Phiên Dịch Đại Tạng Kinh , Với tâm nguyện mang giáo lý Đại Tạng Kinh đến gần gũi  với tứ chúng những năm gần đây, Sư đã dành phần lớn thời gian để dịch thuật bộ Đại Tạng Kinh từ văn hệ Pali sang Việt ngữ và một đại phước duyên đã đến với Sư trong chuyến đi thỉnh kinh điển từ Thái Lan vào năm2011. Và Sư đã tìm được 91 quyển thượng của Đại Tạng Kinh đã bị thất lạc từ lâu ở VN. Phước báu này đang được gìn giữ bảo tồn tại Vỉrginia  nơi Sư vừa lập thiền viện từ năm 2012.

 ***
facebook
youtube



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8431)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8299)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7700)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8024)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9484)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15077)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8658)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13446)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8951)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10766)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]