Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn, Đạo Lý hay Tiêu Cực ?

29/11/202107:02(Xem: 6327)
Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn, Đạo Lý hay Tiêu Cực ?

           

 tien hoc le dau hoc van

         


TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN

ĐẠO LÝ HAY TIÊU CỰC ?




 
Mấy hôm nay đọc báo trên các mạng lưới trực tuyến xã hội tiếng Việt, người Việt khắp nơi trong cũng như ngoài nước, được nghe một nguồn dư luận mới xôn xao về việc nên giữ hay bỏ một câu khẩu hiệu đã trở thành quá quen thuộc trong tất cả các hệ thống trường học Việt Nam từ xưa tới nay. Đó là câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” thường được dán ngay trên tường trước mặt học sinh trong lớp học. Vì đã quá quen thuộc và mặc nhiên được coi đây là một đạo lý đương nhiên kết hợp giữa tinh thần tôn sư trọng đạo và rèn luyện nhân cách nên qua nhiều thế hệ, câu khẩu hiệu này đã trở thành một lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà nghiêm cẩn chuyên chở   giá trị nhân văn đào tạo thế hệ trẻ. Đây không phải là một câu khẩu hiệu thời trang để trang trí lớp học mà là một châm ngôn rèn luyện nhân cách trong đời sống học trò. Bởi vậy, chẳng có thầy giáo hay học sinh nào còn bận tâm đặt câu hỏi là nên hay không nên treo câu khẩu hiệu mang nội dung “nguyên lý giáo dục” hay đạo lý trồng người nầy. (Chữ Lễ trong bài này xin được viết hoa khi nhấn mạnh đó là tiêu đề của toàn bài và viết thường khi hiểu theo nghĩa quy ước.)


Bối cảnh làm nền cho cuộc… đảo chánh khẩu hiệu nầy được giới truyền thông đưa tin như sau:

            Tại hội thảo Giáo dục Việt Nam chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21/11, GS Trần Ngọc Thêm trình bày quan điểm trên trong tham luận: “Xây dựng Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”.
GS Trần Ngọc Thêm kiến nghị: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”.
“Chừng nào còn đề cao chữ Lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển”, ông nhấn mạnh thêm.
            – Trước đó, năm 2016, tại hội thảo “Xây dựng môi trường văn hóa trường học” do Bộ GD-ĐT tổ chức, nhiều đại biểu cho rằng, hệ thống khẩu hiệu trường học đã đáp ứng đúng tôn chỉ mục đích. Tuy nhiên, việc treo khẩu hiệu còn bất cập, mỗi nơi làm một phách và chưa phù hợp nên kiến nghị xem lại khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở trường tiểu học.(Tin Mới)


            
Là một thầy giáo xuất thân được đào tạo dạy môn Việt Văn cấp 3 từ trường Văn Khoa và Sư Phạm Huế (1966-1970) nhưng vì hoàn cảnh và thời thế tôi phải dạy học tại nhiều trường, phụ trách các môn học khác nhau và phục vụ nhiều nơi với hoàn cảnh khác nhau như: Việt Nam trước và sau 1975, Phi Luật Tân, Mỹ. Mãi cho đến khi đứng trên bục giảng của nhà trường Mỹ, nhìn sinh viên vừa vào lớp miệng vừa bỏm bẻm nhai kẹo cao su hay ngồi gác chân lên ghế trong lớp, tôi mới nhận ra cái đạo lý lớp học phải như thế nào mới phải “đạo” bởi tôi vốn đã coi cái trật tự truyền thừa “tiên học lễ, hâu học văn” là nề nếp mặc nhiên trong văn hóa học đường Việt Nam.

            Truyền thống văn hóa và giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm và lâu đời về khái niệm chữ Lễ của văn hóa Trung Quốc. Trong Ngũ Kinh có Lễ Kinh và vai trò của Lễ được đức Khổng Tử xác định: “Không học Lễ thì không biết cách đi đứng ứng xử ở đời.” Và năm đức tính căn bản làm người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín thì Lễ đứng giữa để làm trung gian, bởi vì nhân không trí là tốt mã, thương hại; nghĩa không tín là tuỳ hứng, giang hồ. Cho nên khái niệm cổ điển về Lễ là sự phân định vai trò và cương lĩnh rõ ràng: Hai nước giữ lễ là không xâm hại nhau, hai nhà giữ lễ là không gây phiền oán cho nhau, hai người giữ lễ là tôn trọng lẫn nhau và thầy trò giữ lễ là làm tốt vị trí của mình. Lễ tự nguyên nghĩa là luân thường đạo lý, là trật tự xã hội, là tôn trọng lẫn nhau. Ý nghĩa của chữ Lễ trong quá trình truyền thừa và ứng dụng vào văn hóa giáo dục Việt Nam là tôn sư trọng đạo, học trò xem thầy như cha và thầy xem trò như đứa con tinh thần kế thừa và phát huy tâm nguyện cùng lý tưởng giúp đời và giữ đạo làm người nghiêm cẩn của mình để sống, ứng xử hay có khi chỉ trong mơ ước. Với một khái niệm về Lễ như thế thì bất cứ một nền giáo dục hay một xã hội nào đều ứng hợp với vai trò giáo dục là nhằm đào tạo thế hệ tương lai tài năng và đạo hạnh.

           

            Tuy nhiên, xã hội Việt Nam từ xưa đến nay đã vô tình hay cố ý diễn dịch ý nghĩa của nội hàm chữ Lễ một cách cực đoan và phiến diện trong nhiều trường hợp giáo dục bị biến thành phương tiện đầy khắt khe, áp bức để phục vụ cho tinh thần bảo thủ, quyền lực tôn giáo, giai cấp thống trị đè đầu cỡi cổ dân lành, hay thủ đoạn chính trị... Do đó, đã có nhiều trường hợp cái “Lễ” đã bị lạm dụng khi các thầy đồ, thầy giáo, cô giáo, cơ sở giáo dục… sử dụng hình thức “lễ trị” bằng roi vọt, bạo lực, uy quyền… để đánh đập, mạ lỵ, trừng phạt, vùi dập học sinh một cách thô bạo và… vô lễ! Và hệ quả đương nhiên, với phản ứng tâm lý và thể lý phản hồi có điều kiện, học sinh bị tha hóa vì sợ hãi, căm tức hay chán ngán môi trường học tập với thầy giáo đã hành hạ mình dẫn đến tình trạng cũng đành, thụ động và “thủ tiêu phản biện” như ý kiến của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp phổ biến mà chỉ là khía cạnh cực đoan trong truyền thống giáo dục Việt Nam. Riêng về mặt tâm lý tương tác với xã hội, một học sinh hay sinh viên thiếu khả năng phản biện không phải vì “giữ lễ” hay bị ép lễ mà thường là do thiếu thông tin, thiếu kiến thức và thiếu không khí hay môi trường thích hợp.

           

            Thật ra, câu “Tiên học lễ, hậu học văn” tuy là một câu văn Hán Việt nhưng thường được xem như đã trở thành thuần Việt vì văn phong nhẹ nhàng, ngữ điệu cân đối và nội dung rất dễ hiểu về tinh thần đạo lý và trật tự xã hội rất dễ ứng dụng cho mọi người thuộc mọi trình độ, kể cả hai thế hệ thầy và trò. Đã nhiều lần tôi vừa nhớ, vừa trân trọng cái câu khẩu hiệu đơn giản và nhỏ nhắn nhưng đầy ý nghĩa nầy khi bước vào dạy lớp học Mỹ chẳng thấy ai đứng dậy hay biểu hiện cử chỉ chào kính nào hoặc nhìn thái độ có vẻ thiếu cung kính khi hỏi hay phát biểu với thầy giáo. “Tiên không học lễ rồi chăng?” Tôi tự hỏi. Nhưng càng đi sâu vào khái niệm của “cái Lễ” tôi càng nhận thấy rõ ràng rằng, nội dung của Lễ nếu được hiểu theo một nghĩa tích cực hơn thì học trò, sinh viên Mỹ còn trọng Lễ hơn cả Việt Nam vì trong quá trình học tập rất ít nói dối, hiếm khi gian lận hay ích kỷ và thủ lợi như sinh viên của nhiều nước châu Á xem Lễ như một chiêu thức đóng kịch giả vờ làm vui lòng thầy giáo, miễn sao có lợi cho cá nhân mình.

 

            “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”! Đọc câu nầy của GS. Trần Ngọc Thêm, tôi thật tình chưa hiểu hết tôn ý của GS. Cái gọi là “tư duy phản biện” sao lại bị cột trói vào một trật tự tinh thần và phẩm chất đạo lý của một con đường khiêm cung, quang minh chính đạo như Lễ (lễ độ, lễ phép, lễ nghi, lễ giáo, lễ bái…). Muốn khai mở tư duy phản biện thì chỉ cần ba yếu tố chính là kiến thức vững vàng, phương pháp luận chặt chẽ và khung cảnh thích hợp. Cả một nền triết lý Đông phương, kiến thức khoa học kỹ thuật và phương tiện truyền thông hiện đại là cốt lõi của tư duy phản biện. Lễ không đóng vai trò chướng ngại hay tiêu cực nào cho mọi hình thức phản biện. Không có một thầy giáo nghiêm túc nào lại cấm đoán học sinh mình nêu ý kiến phản biện; nếu không muốn nói là còn hài lòng, ngầm sung sướng vì sự thông minh, lập luận rạch ròi của học sinh mình trong phản biện cả. Thêm nữa, khi nói đến cụm từ “giải phóng sức sáng tạo” thì phải tìm tới những trở ngại kìm hãm sức sáng tạo. Đó là do sự thiếu khả năng, thiếu nhân tài, thiếu điều kiện, thiếu hoàn cảnh… chứ hoàn toàn không do một hình thức “Lễ” nào tác động để làm mất đi khả năng sáng tạo cả. Muốn “giải phóng sức sáng tạo” thì phải cần quy tụ nhân tài, tôn trọng tự do, đánh giá công minh và đãi ngộ xứng đáng là bốn “tiêu chuẩn vàng” của tinh thần phát huy sáng tạo Đông cũng như Tây. “Lễ” chẳng đóng một vai trò nào mang tính quyết định chung cuộc trong sáng tạo nghệ thuật, khoa học và nhân văn cả. Do vậy, kiến nghị của GS về việc cần chấm dứt việc sử dụng một câu TÂM NGÔN hay ho như thế thì rất mong GS định tâm suy nghĩ và cân nhắc cẩn trọng hơn; cũng như cần uốn lưỡi nhiều lần trước khi phát biểu.

 

            Nhà trường Mỹ cũng có các câu khẩu hiệu được sử dụng luân lưu trong hệ thống trường học cả nước nhưng hẩu hiệu trong nhà trường Mỹ thường không nhắc nhở về phương thức và thái độ học tập mà nói về ý nghĩa và mục đích của quá trình học tập.  Sau đây là một dẫn chứng về 200 câu khẩu hiệu trong nhà trường Mỹ đủ các cấp học (https://sloganshub.org/school-slogans/). Có thể nói là gần như không có một câu nói lên một nhân vật thần thánh nào khác hơn là chính bản thân người học trò phải chủ động và chịu trách nhiệm cho hướng đi và mục đích mình vươn tới. Nếu có chăng một vài câu nói về “lễ” thì cũng đề ra phong cách ứng xử do chính bản thân người học trò chủ động như “Hãy kính trọng người khác để được người khác kính trọng” (Respect others and they’ll respect you). Trong lúc đó thì cách thủ lễ của Việt Nam ta là cần phải làm theo lời khuyên và đương nhiên chấp nhận giá trị của các bậc cao nhân tiền bối.

 

            Thử khách quan để đưa ra một vài nét so sánh về khái niệm, nội dung và tác dụng của cái “đức” và “lễ” theo hai khuynh hướng:

 

-          Việt Nam: Thầy giáo và xã hội chủ động dạy dỗ học trò và con em phải làm những điều hay lẽ phải đã được quy định.

-           Mỹ: Thầy giáo và xã hội chỉ đóng vai trò trình bày, giới thiệu hệ thống giá trị đạo lý để cho học trò và con em tự quyết định có nên áp dụng những nguyên tắc và giá trị đó cho mình hay không.

 

            Như thế, dẫu là trong bối cảnh văn hóa của Mỹ, Việt Nam hay bất cứ quốc gia, xã hội nào thì đức hạnh vẫn được bảo vệ và tôn trọng. Tiêu chí của hệ thống giá trị và đức hạnh tuy không giống nhau nhưng vẫn có điểm chung, đó là trật tự xã hội và cung cách đối tác hay ứng xử với nhau. Đó chính là cái Lễ đã trở thành cái biết, cái học đầu tiên cần phải có. Hình thức và phương tiện ứng dụng cái Lễ trong môi trường giáo dục cần phải có sự mềm dẽo, thích ứng tùy theo thời đại, văn hóa xã hội và đáp ứng được nhu cầu cụ thể.

 

            Kẻ đang viết những dòng nầy rất chia sẻ thiện ý và công tâm của GS. Trần Ngọc Thêm cũng như lời phản biện rất thuyết phục của PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT khi ông cho rằng: “… với mỗi một con người, ‘đức’ là cái gốc cơ bản . Ở đây có thể hiểu “lễ” tức là đức hạnh. Trong cuộc sống hay ở gia đình , cơ quan, nhà trường… đức rất quan trọng.”

 

            Nay giữa hai khuynh hướng trái chiều là nên bỏ hay nên giữ câu châm ngôn “Tiên học lễ, hậu học văn” trong môi trường giáo dục, tuy mới nghe qua thì đây chỉ mới là một hoặc vài ba ý kiến chống hay thuận theo quan điểm cá nhân; nhưng đứng trên bình diện giáo dục và luân lý đạo đức của một xã hội, một quốc gia thì đây cũng có thể coi như một bước đột phá của những nhà giáo, trí thức dân tộc trước những thách thức của thời đại mới. Sự xét lại để điều chỉnh cập nhật những giá trị tinh thần và đạo đức “xưa bày nay làm” trong nhiều lĩnh vực mà đặc biệt trong môi trường và nhu cầu cải cách giáo dục là những đóng góp cần thiết trước muôn vàn chướng ngại đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, việc kiến nghị hủy bỏ câu “Tiên học lễ, hậu học văn” thì hoàn toàn không nên thực hiện vì nó vừa thiếu cơ sở về đạo đức cũng như lý luận; vừa không thuyết phục trên căn bản nguyên lý giáo dục và đạo lý dân tộc.

 

            Trong mọi công cuộc cải cách và đổi mới cần xác định một cách khách quan và khoa học rằng, không hề có một nguyên nhân đơn lẻ nào có đủ tầm vóc quyết định huống hồ đây chỉ là một câu nói mang tính tục ngữ, châm ngôn lâu đời chứ không phải là khẩu hiệu nhất thời. Học lễ trước để chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng cho bước học văn tiếp theo là một trình tự diễn tiến rất “lôgich” không bao giờ lỗi thời hay phai cũ.

                             

                                                                                                                                                                                                            Sacramento Thanksgiving 2021
 Trần Kiêm Đoàn, Ph.D., MSW.

                                                                             





***

facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4737)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7545)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4937)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 5092)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5532)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10509)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9308)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6631)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 9039)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5193)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]