Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cũng Phải Tu Theo Ngài Thần Tú

23/09/202112:03(Xem: 4871)
Cũng Phải Tu Theo Ngài Thần Tú




dai su than tu
Cũng Phải Tu Theo Ngài Thần Tú
            

Có một câu chuyện tu thân mà tôi học từ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng (Tiểu Học) khi tôi còn mười, mười một tuổi tức cách đây 70 năm tại Hải Phòng mà tôi vẫn còn nhớ. Đó là bài Cách Sửa Mình như sau:

Ông Trình tử (Trình Y Xuyên đời Tống) xưa để hai cái lọ ở bên cạnh chỗ ngồi. Mỗi khi trong bụng nghĩ một điều gì thiện, thì ông bỏ một hột đậu trắng vào trong một lọ. Mỗi khi nghĩ một điều gì ác, thì ông lại bỏ một hột đậu đen vào cái lọ kia. Lúc đầu, đậu đen nhiều, đậu trắng ít. Sau đậu trắng nhiều, đậu đen ít, dần dần đến không còn một hột đậu đen nào. Về sau, không cần phải bỏ đậu trắng nữa, tâm tính bấy giờ thuần nhiên toàn thiện. Vì ông Trình tử biết sửa tâm rèn tính như thế mới thành được người hiền triết. Vậy ta nên lấy đó làm gương mà sửa mình. Trong sách có câu: "Từ đấng thiên tử cho đến kẻ thứ 42 nhân ai ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc." Vậy người ta bất cứ làm gì cũng phải cố mà sửa mình cho nên con người có phẩm hạnh.” (Tài liệu trên Internet)

 Từ đạo tu thânsửa mình của bậc quân tử qua Ông Trình Tử, chúng không thể coi thường các bậc Nho Gia. Bậc quân tử theo Đạo Nho là người tự tu thân, sửa mình trước rồi mới ra làm quan giúp nước qua tiến trình: Chính Tâm, Thành Ý, Tu, Tề, Trị, Bình.

Chính tâm:

Tâm địa phải ngay thẳng, không tà vạy, không thiên vị theo khuôn thước “Pháp bất vị thân, chí công vô tư”. Đây giống như quan niệm Tu Tâm của Đạo Phật.

Thành ý: Khi nảy ra một ý gì thì ý đó phải chân thành, xây dựng, vì quốc gia dân tộc, không vì mình, không đố kỵ tỵ hiềm. Đây chính là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy trong Bát Chánh Đạo.

Tu: Dù có Chính Tâm, dù Thành Ý nhưng vẫn phải tu. Như viên ngọc dù quý nhưng vẫn phải mài dũa. Ở đây nên tu theo phép tu của Trình Tử.

Tề: Ở đây là tề gia. Phải sắp xếp sao cho gia đình êm ấm. Thuận vợ thuận chồng, con cái biết vâng lời, học hành, làm việc tới nơi tới chốn. Cứ thử tưởng tượng gia đình vợ chồng cãi lộn, đánh chửi nhau tối ngày rồi đưa nhau ra tòa ly dị, con cái hư hỏng ùm sùm cả xã hội thì tâm trí đâu mà quản trị, lo chuyện đất nước? Vì các đệ tử của Phật đã xuất gia cho nên Đức Phật không dạy đệ tử cách “tề gia” nhưng Đức Phật cũng có bài pháp dạy con dâu ông trưởng giả Cấp Cô Độc về đạo làm vợ sao cho gia đình hạnh phúc, êm ấm và được mọi người thương mến, quý trọng.

Trị: Với những đức tính này thì việc quản trị đất nước chắc chắn sẽ thành công. Luật pháp chỉ trừng trị tội ác nhưng không ngăn ngừa được tội ác. Chỉ có lương tâm và đạo đức mới ngăn ngừa được tội ác mà thôi. Một xã hội mà viên chức nhà nước đạo đức, liêm chính, luật pháp được thượng tôn thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.

Bình thiên hạ: Khi đất nước đã thái bình thịnh trị rồi thì nó là khuôn thước, mẫu mực cho toàn thế giới. Một quốc gia hùng cường hay siêu cường không phải là quốc gia có vũ khí tối tân mà là có đạo đức làm mẫu mực cho toàn thế giới. Khi đó không cần dụng binh, can thiệp vào nội bộ, lật đổ, cấm vận mà vẫn cai trị được thiên hạ, bảo đâu nghe đó. Cho nên người xưa lấy đức trị dân và “bình thiên hạ” là như vậy.

Ngày nay Đạo Phật ở trong và ngoài nước phát triển chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc thế nhưng đang phải đối phó với vấn nạn tăng ni hư đốn. Trong Tam Bảo, thì Phật Bảo và Pháp Bảo không bao giờ hư đốn mà chỉ có Tăng Bảo là có thể hư đốn mà thôi. Sự suy tàn của một tôn giáo có thể do:  Sự tiêu diệt của ngoại bang, sự chèn ép của một tôn giáo mạnh hơn, sự kỳ thị của chính quyền. Nhưng trong hòa bình, một tôn giáo sẽ biến mất khỏi trái đất này nếu nó trở nên hư đốn hoặc không còn thích nghi với tri thức và khát vọng của thời đại. Không thích nghi thì còn có thể làm cho nó trở nên thích nghi. Còn hư đốn thì “hết thuốc chữa”. Ba hư đốn kinh khủng nhất của thời đại ngày hôm nay là 1) Tham tiền  2) Dâm ô với trẻ em và với đàn bà, con trai, con gái và 3) Ham mê hư danh, sống sa hoa trụy lạc. Thấy tu sĩ hư đốn, tín đồ sẽ khinh bỉ cả tôn giáo đó và tìm đến một tôn giáo khác. Nếu hư đốn mỗi lúc mỗi trầm trọng thì tôn giáo đó diệt vong.

Xin nhớ cho tu sĩ vẫn là con người (Priests are human being) với tất cả đam mê, dục vọng khoái cảm của một con người. Tu sĩ dù là nam hay nữ vẫn là con người mà lúc nào cũng muốn hưởng thụ khoái cảm của xác thịt và của Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức. Chỉ với ý chí quyết liệt mới có thể đè hoặc cao hơn là diệt được những cám dỗ của xác thân này. Do đó lơ là mất cảnh giác, không giữ gìn giới luật, không quyết tâm tu hành… thì sa đọa và hư đốn xảy đến cấp kỳ. Ngay thời Đức Phật còn tại thế đã có tăng/ni hư đốn (phạm giới) thế nhưng còn ít và chưa thành một “tệ nạn” vì lúc đó người theo Đạo Phật ở Ấn Độ còn tương đối ít.

Trong bài viết,  “Đề Phòng Khả Năng Tự Suy Thoái của Đạo Phật” đăng trên Thư Viện Hoa Sen, tác giả Trần Văn Chánh cho biết:

 “Số liệu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ghi nhận cả nước có gần 45 triệu người quy y Tam Bảo, chiếm phân nửa dân số; có hơn 14,000 tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường,  khoảng 45,000 Tăng Ni; trên 800 đơn vị Gia đình Phật tử.”

Với số lượng 45 triệu người tin theo, uy thế của Phật Giáo rất lớn. Thế nhưng nếu con số 45 triệu người này bất mãn vì sự hư đốn của tăng ni thì ảnh hưởng xấu của nó cũng rất lớn. Về sự hư đốn của tăng ni, tác giả Trần Văn Chánh cho biết:

 “Thực tế cho thấy một số Tăng Ni đang có khuynh hướng coi trọng việc xây chùa to, dựng tượng lớn, phát triển cơ sở vật chất mang tính hiện đại, coi nhẹ thanh quy và việc hoằng pháp. Những năm gần đây, nhiều lễ hội mang màu sắc Phật giáo có khuynh hướng mê tín rõ rệt, bị một số đình chùa lạm dụng trục lợi trắng trợn, tạo nên những hình ảnh lệch lạc khó coi bị cả dư luận xã hội lên án, làm ảnh hưởng nặng nề đến uy tín chung của Phật giáo. Việc dùng xe công đi lễ chùa rất phổ biến hiện nay cũng cho thấy hiện tượng chạy theo những giá trị hào nhoáng bề ngoài của một số Phật tử trong giới công quyền.

Quan sát lối sống và tu hành của tăng ni trong nhiều năm qua, rất nhiều thiện tri thức than phiền rằng họ tập trung quá nhiều vào việc kiếm tiềntụng kinh, tụng đám ma, cầu an, cầu siêu cho người chết. Tất cả những thứ này không giúp ích gì người tu hành cả. Ngày xưa đệ tử Phật không tụng kinh hằng ngày, lập đi lập lại như một cái máy mà chỉ nghe Phật thuyết giảng xong rồi quyết chí tu theo như lời giáo huấn của Phật.

Nguyên do của sự hư đốn do tâm chứ không do cảnh  không thể đổ lỗi cho cảnh. Không thể nói rằng bà, cô ấy đẹp cho nên tôi sa ngã. Cũng không thể nói rằng chùa giàu làm người ta kính trọng, còn chùa nghèo thì người ta coi thường cho nên tôi phải tìm cách kiếm tiền. Hễ luyến vào cảnh thì sanh tâm hư đốn. Do đó phải tu tâm hay luyện tâm. Phải dành nhiều thời giờ vào Thiền Định và Quán Chiếu. Về Thiền Định tôi không dám lạm bàn vì không phải thiền sư. Về Quán Chiếu tôi có thể đề nghị nên quán chiếu Khổ Đế, Vô Thường và Tham Sân Si. Và kết hợp lối quán chiếu này với cách tu thân của Trình Tử. Chư tăng/ni nên lấy hai cái lọ và một ít đậu xanh, đậu trắng.

- Khi có Phật tử đem tiền bạc đến cúng dường, nếu thấy vui mừng thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu thấy đây có thể là phiền não và tai họa thì bỏ một hột đậu trắng. Đức Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ nói rằng tôi sợ tiền bạc thì đây là sự chứng ngộ của bậc thánh tăng.

- Khi có người đến cúng chùa tài vật, nếu nghĩ tới gia đình, anh chị em, hoặc sử dụng riêng tư thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu nghĩ đến người nghèo khó, tiền của đàn na thí chủ thì dùng vào Phật sự và bố thí, không sử dụng riêng thì bỏ một hạt đậu trắng. Theo lời kể của HT. Thích Nguyên Siêu (San Diego, CA), đại lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển (Ôn Mật Hiển) dù chùa rất nghèo nhưng thấy cái gì dư thừa đều nói đệ tử đem chu cấp cho những người nghèo khó. Cũng theo thầy Thích Nguyên Siêu, “Đại lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển- một bậc Thạch Trụ Thiền gia, Tòng Lâm Mô Phạm đã hưng khởi uy nghi, đức độ dưới vòm trời Sơn Môn xứ Huế vào các thập niên 1940-1980, uy đức ấy mãi rạng ngời trong tâm thức người Phật tử mỗi khi tưởng niệm về Ôn.”

- Nếu có nam nữ Phật tử đẹp đẽ đến gần và nói lời hoa bướm, nếu thấy vui, thấy thích thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu thấy đây là cội nguồn của tai họa thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Khi nghe băng nhạc, các chương trình ca kỹ mà thấy vui, thấy thích thì bỏ một hạt đậu đen. Còn thấy đây là niềm vui của thế tục, trong niềm vui đã có khổ đau… thì bỏ một hạt đậu trắng. Nếu thấy ca kỹ là niềm vui thì tu hành khổ hạnh để làm gì? Sao không bỏ áo tu hành ra làm ca sĩ, MC vừa có tiền vừa nổi tiếng vừa sung sướng?

- Khi có Phật tử vái lạy cung kính mà thấy thỏa mãn thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu thấy mình chẳng là gì cả “Ba đời thế giới chư Phật loạn sinh ra rồi loạn diệt mất” như trong Kinh Viên Giác thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Khi được người ta khen ngợi mà trong lòng thấy vui thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu biết hồi hướng về tất cả thầy tổ, đệ tử và muôn loài chúng sinh thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Khi có người chê bai mình mà sân hận rồi đem tâm thù ghét thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nhẹ nhàng và nói  lời cám ơn rồi âm thầm soi lại gương. Nếu thấy sai lầm mà sửa chữa thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Mình là thượng tọa, nếu có ai xướng danh mình là đại đức mà bực mình, đỏ mặt, thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu thấy đây chỉ là chuyện bình thường thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Khi được người ra đón rước cung kính, xe cộ cao sang, võng lọng linh đình mà tưởng mình thành Thánh rồi thì bỏ một hạt đậu đen. Còn nếu tưởng nhớ đến Đức Phật suốt đời đi chân đất, sống, tọa thiền và ngủ dưới cây bồ đề hay tịnh xá, không máy điều hòa không khí, không nệm ấm chăn êm, không truyền hình, iphone, ipad, không tủ lạnh chứa cả chục món ăn bổ dưỡng…thì bỏ một hạt đậu trắng.

- Khi một ý nghĩ đố kỵ tỵ hiềm, ghen ghét nổi lên mà biết xấu hổ thì bỏ một hạt đậu trắng. Còn nếu thấy mình đúng thì bỏ một hạt đậu đen.


Sau khoảng một năm, nếu đậu trắng nhiều hơn đậu đen, vị đó có thể tiếp tục tu hành. Còn nếu đậu đen nhiều hơn đậu trắng thì nên cởi áo Như Lai, trở lại đời thường lấy vợ lấy chồng sinh con, đẻ cái buôn bán làm giàu vừa sung sướng vừa tự do vì không một ai có quyền phê phán mình. Lúc đó mình chỉ là một cá nhân chứ không phải là biểu tượng của Đạo Phật và niềm tin - có khi cả triệu tín đồ đang gửi gắm nơi mình.

Ngoài ra lại còn phải phối hợp với lối tu thực tiễn của Ngài Thần Tú qua bài kệ nổi tiếng:

 

Thân là cây bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Phải siêng năng lau chùi

Chớ để bụi trần bám

Đúng vậy!

- Người xuất gia trước tiên phải biết thân mình là Cây Bồ Đề tức thân giác ngộ, an vui, giải thoát khỏi mọi ràng buộc cám dỗ của thế gian.

- Tiếp đó người xuất gia phải giữ tâm mình như tấm gương tức biết hết và phản chiếu muôn vật ở thể chân như, không thương-ghét, không đúng-sai, không dị biệt, không trước-sau và chẳng sinh mà cũng chẳng diệt. Đó là tâm Phật, tâm hằng trụ, bất biến.

- Muốn đạt được tâm và thân này, theo ngài Thần Tú, người tu hành phải luôn luôn cảnh giác, lau chùi không cho bụi trần tức mọi phiền não có thể bám vào. Cách “lau chùi” ở đây là giữ gìn chánh niệm, giới luật nghiêm minh và tu thiền định, tránh xa nơi vui chơi tụ họp đông người.

Xin nhớ cho Đạo Phật là một giáo lý kỳ diệu đang dần trở thành lương tâm của nhân loại, giải thoát cho chúng sinh khỏi khổ đau và kiến tạo một nền hòa bình cho thế giới. Đức Phật ra đời, bốn mươi năm hành đạo gian khổ, không phải để đào tạo ra các thầy cúng, thầy pháp, thầy bói toán, xem quẻ, tập trung vào việc kiếm tiền, tụng kinh, tụng đám ma, tụng xác chết, cầu an, cầu siêu cho người sống người chết giống như các đạo thờ thần. Mới đây Thư Viện Hoa Sen đã đăng một bài viết của đạo sư Gyalwang Drukpa Tây Tạng khiến chúng ta phải suy nghĩ, “Nếu giáo pháp chân chính không được thực hành nhằm mục đích giải thoát, giác ngộ mà chỉ để giao lưu xã hội hay quan hệ phù phiếm thì điều đó chẳng có ý nghĩa.” Tây Phương ngưỡng mộ Đạo Phật và theo Phật không phải vì tu sĩ Phật Giáo biết tụng kinh, tụng đám ma, tụng xác chết, cầu an, cầu siêu cho người sống người chết. Những việc làm này, họ đã tìm thấy đầy đủ trong đạo riêng của họ rồi. Họ theo Phật để được sự an tĩnh, giải thoát khỏi tất cả những cám dỗ nhưng đầy khổ đau của kiếp người và nhất là cho họ bước vào biển trí tuệ mà không một đạo sư nào có thể giúp họ hay khai mở cho họ.

Vậy chúng ta phải hạn chế hoặc từ bỏ tất cả những việc làm vô bổ để tập trung vào việc mở mang trí tuệ như Phật Hoàng Trần Nhân Tông nói “Muốn tu thành Phật phải có trí tuệ”. Muốn Đạo Phật không sa đọa trong thời Mạt Pháp thì phải có trí tuệ. Không trí tuệ thì thời nào cũng “mạt” chứ không phải đợi tới thời kỳ mạt pháp. Vấn nạn tăng ni hư đốn đã giúp cho thời kỳ mạt pháp có thật và đến nhanh hơn.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 22/9/2021)


 
facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6089)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6285)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3983)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8323)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10833)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7918)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
22/06/2021(Xem: 4459)
Những năm trước, hình ảnh Đức Phật in trên đồ lót, trên bồn cầu, trên giày dép…cộng đồng Phật tử phản ứng mạnh, những vật dụng đó được thu hồi.Vài người nghĩ rằng đó là những hành động xúc phạm từ cá nhân khác tín ngưỡng hoặc đố kỵ Phật giáo. Ngày nay, hàng loạt hình ảnh cờ của nhiều quốc gia in trên cuộn giấy vệ sinh, Chúa Phật đều xuất hiện trên giày dép, thảm chùi chân… truy tìm xuất xứ mà không hề có dấu vết.Thế giới tự do, không có nghĩa tự do xúc phạm những gì thiêng liêng mà con người sùng phụng. Chả lẽ thời đại ngày nay không còn tin vào bất cứ giá trị Thần tượng? Thực dụng đâu có nghĩa xem thường niềm tin của người khác.( đành rằng, tinh thần nhà Phật không quan trọng những hình tướng, bởi -“phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]