Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ "Ôn Già Lam”

15/04/202109:05(Xem: 5062)
Nhớ "Ôn Già Lam”
NHỚ  “ÔN  GIÀ  LAM”
(Tưởng Niệm Cố H.T Thích Trí Thủ ( 1909 – 1984) nhân ngày giỗ lần thứ 37-2021)

 H.T Thích Trí Thủ

                                 Như nhiều Phật tử người Miền Trung, người viết cũng rất thích gọi Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ bằng “ Ôn Già Lam”, để phần nào đó cảm nhận được sự Kính trọng và gần gũi, thân thiết bên mình  trong cuộc sống tu học. Trong bài viết này xin được dùng hai từ Hòa Thượng ( H.T ).

                                 Đối với anh em thanh niên Phật tử chúng tôi ngày trước, mơ ước được gặp và được nghe  những vị lãnh đạo  Phật giáo  nói chuyện  là một mơ ước rất lớn, khó có cơ hội trở thành hiện thực. Những khi làm hàng rào danh dự bảo vệ, nhìn được rất gần các vị mỗi khi đi ngang qua đã là một phước báu vô cùng rồi. Nếu  muốn  được nghe  các vị giảng thì mỗi chiều chủ nhật đến giảng đường chùa Ấn Quang để thỏa một phần nào  niềm mơ ước  ấy. Xem ra ngày trước  Phật tử cũng còn có nhiều cơ duyên gặp gỡ các ngài quá!

                                 Với Ôn Già Lam , H.T càng trở nên  quan trọng hơn , nhất là khi ở cương vị Viện Trưởng  giữa lúc tình hình chiến tranh, loạn lạc và tình hình chính trị  ngày càng phức tạp. H.T luôn đứng trước nhiều khó khăn cần được giải quyết. Sau năm 1975, tuy vấn nạn và dư âm của chiến tranh đã tạm ổn thì những khó khăn khác lại đưa đến, H.T thêm một lần nữa đứng giữa muôn trùng gian khó. Khi đó, với suy nghĩ của tuổi trẻ thanh niên Phật giáo, anh em chúng tôi thấy hình ảnh Dân Tộc-Đạp Pháp luôn hiện rõ trên đôi vai vốn oằn nặng bao trách nhiệm của một vị H.T ôn hòa và từ tốn như Ôn Già Lam. Và đó cũng chính là gương soi cho bước đường phấn đấu cũng như tu học của một thời thanh xuân tươi đẹp của thế hệ chúng tôi.

                               Nhớ một buổi trưa hè năm 1977, người viết với tư cách phụ tá , được tháp tùng vị Đại đức Đặc Ủy Thanh Niên đến chùa Già Lam xin gặp  H.T để trình bày  vài  vấn đề quan trọng ở địa phương.  Được hướng dẫn đến  vị trí thì thấy H.T đang ngồi trên chiếc ghế tựa  phía hành lang  bên hông chánh điện đọc báo hay xem   một số tài liệu. Khi đó chánh điện chùa Già Lam chưa được xây mới, vẫn còn là hình lục giác, bên dưới là thư viện. H.T ngồi dậy nở nụ cười hiền, vị Đại đức Đặc Ủy Thanh Niên quỳ trước H.T đúng ba bước và tôi cũng đúng ba bước quỳ sau vị Đại Đức này. Sau khi những sự việc được trình bày và H.T đã chỉ dạy xong, đôi khi còn có tiếng  phiền hà  một vài vị làm trái lời chỉ dạy, tất nhiên  cả vị Đại đức và người viết đều rất run sợ. H.T khi ấy nhìn nghiêng qua một bên vị Đại đức để nhìn  người viết và hỏi “ Mi cũng là Phật tử hỉ?”, Vị Đại đức nọ trả lời   thay  và nói  trách nhiệm cũng như chức vụ  khi đó của người viết, rồi H.T hỏi “ Đã Quy Y với vị  thầy mô?”  Người viết trả lời và  nêu những nguyện vọng của nhiều đòan thể thanh niên Phật giáo  khi ấy  còn nhiều khó khăn mong H.T quan tâm giúp đỡ. Khi nói đến tương lai và nghề nghiệp, khi đó người viết cũng vừa bị trả hồ sơ xin vào học nối tiếp chương trình dỡ dang  ở Đại học Văn Khoa lúc trước và  hiện  khi đó là Đại Học Tổng hợp TP.HCM do quá quá tuổi quy định, nên có thóang  trầm tư. Nguyện vọng  trong tương lai là sẽ theo ngành  lịch sử và  văn hóa để phụng sự đạo pháp. H.T mĩm cười và có đôi lời sách tấn rất hoan hỷ, Xong H.T hỏi ”  Việc phụng sự đạo pháp mi muốn giống ai?” Người viết trả lời nhanh” Dạ, con muốn giống Ôn ạ!”. H.T cười và nói nhanh “À, giống Ôn hỉ?  Vậy thì Như Tâm để giống Ôn là …Tâm Như nhe?” Cuộc gặp gỡ kết thúc trong niềm hoan hỷ vô biên.

                            Với người viết, đó là lần đầu tiên và duy nhất được gặp trực tiếp, thưa chuyện đội câu cùng H.T. Mãi đến hơn mười năm sau Cái tên Như Tâm mà H.T khi ấy nói thoáng qua trong lúc vui vẻ ấy đã trở thành bút hiệu Dương Như Tâm của mình trên các bài viết mang phong cách lý luận và phê bình văn học, nghệ thuật Phật giáo cho đến bây giờ. Trong tâm tư người viết, dù có sự lý giải của nhiều vị cho rằng đó là một trong những cách “thọ ký” của các bạc đạo cao đức trọng, hay có vị cường điệu rằng H.T có thiên vị với cá nhân mình…v…v…Những cách lý giải ấy với người viết cũng chỉ là một dấu ấn  nhỏ, một kỷ niệm vui. Tuy nhiên, như trên đã nói, mình vốn luôn kính trọng hình ảnh xả thân, chịu bao gian khó của H.T, dù ở cương vị nào cũng đều dành hết tâm tư, sức lực cho đạo pháp, rất xứng đáng và rất  vinh hạnh nếu được tựa bóng một cội Bồ Đề cao đẹp như vậy.

                             Có những ngày Chủ Nhật, H.T đi qua chùa Diệu Giác ( đường Trần Não, Quận 2 bây giờ) để nói chuyện đạo cho chư Ni và những Phật tử tìm đến nghe. Trong những lần như thế H.T giảng dạy  rất chân tình, trong đó mang mác nhiều ý chí , nhiều bài học đầy đủ công hạnh Bi,Trí,Dũng mà anh em thanh niên Phật tử chúng tôi đang phấn đấu. Và các bài viết dưới bút hiệu Dương Như Tâm cũng mang nặng trên đó những ý chí kiên cường, những nỗi lòng Từ Bi vô lượng trước những cố gắng mà Phật giáo làm được hay chưa làm được. Có một buổi nói chuyện như thế, người viết  vì  lo không về kịp để dự, nên viết  mảnh giấy nhỏ nhờ đạo hữu đoàn phó của người viết chuyển  trình lên H.T. Nội dung  cũng chỉ hỏi ý kiến H.T về bút danh Dương Như Tâm trong các bài viết mạnh. Theo lời vị đạo hữu bạn thân thuật lại, câu hỏi cũng được H.T hoan hỷ trả lời hôm đó đại ý rằng: Dù với mục đích gì, tên họ cha mẹ đặt cho không nên sửa chửa hay chê bai đẹp xấu. Dù có thân thiết hay kính trọng ai mà sửa đồi tên họ cha mẹ đặt cho để thay vào đó tên người mình yêu thích thì nên xem lại. Người Phật tử phải lưu ý diều này. Sau đó, khi trên đường từ chùa ra xe ( vì đường khi ấy, đất đỏ, rất lầy lội) vị đạo hữu   b5n  tôi có  chạy theo  thỏ thè bên hông H.T rằng Dương Như Tâm không phải sửa tên họ mà chỉ là bút danh. H.T vừa đi vừa cười nói “ Rứa hỉ? Rứa thì tốt quá chừ. Cố gắng hỉ?. Từ đó về sau, cũng trên các diễn đàn, người viết dùng tên thật của mình cho lãnh vực văn hóa văn nghệ và nghiên cứu lịch sử.

                         Với tên thật của mình: Dương Kinh Thành, sự trân trọng ấy một dành cho tôn vinh, báo hiếu hai đấng sinh thành của mình, thứ hai là để   luôn nhớ lời H.T dạy. Phần nhiều trong xã hội, hoặc những khi làm giấy tờ, nhiều ý kiến cho rằng tên họ rất tròn ý nghĩa, rất đẹp. Người viết rất vui vì đã có hai bút danh, cả hai mang ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời. Trái ngược với một vài  người cố tình  sửa đổi tên họa để làm trò cười cho thiên hạ, kể cả trong  tiệc sinh nhật, tiệc cưới. Nếu những vị này có nghe được những lời dạy của H.T không biết người ta sẽ nghỉ sao! Cũng rất may họ chưa phải là người có học đạo hay hoạt động trong lãnh vực văn hóa cao cả .

                          Mỗi khi thực hiện  các bài viết dưới  hai bút danh  này, người viết luôn nhớ về Ôn Già Lam, người đã  cho  mình nhiều bài học quý giá trong cuộc sống và hiện vẫn còn  ngự trị trong mỗi dòng thông tin, nghị luận của chính người viết.

                          Hôm nay, nhân kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 37 của H.T, xin mạo muội  nhắc lại những lời dạy mà mình cho đó chính là những phước duy quý giá trong cuộc đời tu học và phụng sự chánh pháp.

                         Cúi mong giác linh Hòa Thượng từ thùy chứng giám.

 

                                                                                Dương Kinh Thành

                                                                                 ( Dương Như Tâm )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 5340)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12184)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5373)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 4951)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5093)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4445)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4703)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4167)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3612)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]