Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cây Quạt Lụa Hồng

21/03/202121:33(Xem: 5055)
Cây Quạt Lụa Hồng

Cây quạt lụa hồng-1

Đây là tựa đề của một vở tuồng cải lương của những năm đầu thập niên 60, do soạn giả Thu An tức "Chú Sáu đờn cò" viết tuồng cho đoàn cải lương "Tiếng chuông vàng Thủ Đô" đi trình diễn khắp nơi. Năm ấy đoàn ra tận Nha Trang diễn tại rạp Tân Quang gần ngã sáu, tôi được mẹ dẫn đi xem ngồi ở hàng ghế mời phía trước sân khấu. Không phải mẹ con tôi đặc biệt và quan trọng đến độ chủ gánh hát phải tốn đến hai ghế mời. Họ gửi vé mời đến các công sở, chủ yếu cho vợ chồng ông Tổng Giám đốc sở Tạo Tác nơi mẹ tôi làm việc, nhưng họ không "hảo" cải lương nên thưởng công tặng cho mẹ con cô thư ký chăm chỉ. Do đó tôi được xem rất nhiều tuồng cải lương hay và nổi tiếng thời bấy giờ, nhưng vở tuồng này đã in sâu vào tâm trí của tôi mãi tận đến bây giờ.

 

Ấn tượng lớn nhất là đám rước dâu với kiệu hoa kèn trống linh đình để đưa Huyền Trân Công Chúa sang Chiêm quốc, dẫn đầu có tướng Trần Khắc Chung oai hùng trên lưng ngựa và sau cùng là đoàn múa rối với em bé Hương Lan trong vai Bo Bo và anh chàng khổng lồ cao trên hai mét. Đám rước đi từ bên ngoài rạp xuyên qua khán giả để lên sân khấu. Tôi lúc đó chỉ bằng tuổi của em bé Hương Lan nên rất ngưỡng mộ các nghệ sĩ, đã rời tay mẹ chạy theo đám rước thật đình đám. 

 

Với số tuổi hỉ mũi chưa sạch ấy, tôi làm sao nhớ hết cả một vở tuồng, chỉ nhớ cảnh chia tay sầu thảm của Thượng Tướng Trần Khắc Chung với Huyền Trân Công Chúa "bên cầu biên giới" nghe dòng đời từ từ trôi... Sau khi ca đủ sáu câu vọng cổ mùi tận mạng, Chàng Thượng Tướng mới rút trong tay áo ra một chiếc quạt lụa hồng tặng cho người yêu. Mong nàng nơi đất khách quê người, mỗi lần nhìn quạt lại nhớ tới người phương xa. Đoạn này chắc tôi nhớ lầm rồi, phải nàng tặng quạt chứ ai lại để Thượng Tướng tặng quạt bao giờ?

 

Màn một đã não lòng, màn hai lại càng hào hứng gấp bội khi chàng Thượng Tướng được lệnh sang Chiêm giải cứu Huyền Trân sau một năm đưa nàng ngàn dặm về xứ chồng, đoạn cuối soạn giả cho kết thúc thật đẹp. Đôi "Thanh mai, trúc mã" lấy theo ý thơ của Lý Bạch, đã dong thuyền đi chu du ngoài biển khơi, lênh đênh trên sóng nước cả ba tháng trời như Sử gia Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê đã viết trong "Đại Việt Sử ký toàn thư".

Sử đã viết như vậy, ca nhạc cũng như nghệ thuật sân khấu đã dàn dựng lên mối tình đẹp ngời ngợi như thế! Lấy gì tôi không dệt mộng, vẽ vời cho bản tình ca vô tận này. 

 

Nhưng rồi mọi việc giống như câu nói: "Nửa cái bánh vẫn là cái bánh, nhưng nửa sự thật không là sự thật", khi tôi được giao cho nhiệm vụ cao quý là đọc và hiệu đính các lỗi chính tả tác phẩm "Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa" của Hòa Thượng Thích Như Điển (Sư phụ tôi). Ôi thôi! Tôi biết mình đã lầm nặng, dám nghi oan cho mối tình thầy trò trong sạch, một nghĩa quân thần cao quý chỉ vì lợi nước ích dân. 

 

Trở lại dòng lịch sử của triều đại nhà Trần vào thế kỷ 13, một triều đại được dựng lên do bàn tay thao túng của Trần Thủ Độ. Ông "Thần biến hóa" này đã không từ nan một thủ đoạn nào để chiếm lấy ngai vàng cho dòng họ Trần, dùng cậu cháu Trần Cảnh kết mối tơ duyên với vị vua cuối cùng của triều Lý tức Lý Chiêu Hoàng. Rồi dùng sức ép bắt vợ phải nhường ngôi cho chồng, để Trần Cảnh lên ngôi dựng lên nhà Trần với Trần Thái Tông. 

 

Bắt đầu từ đây sóng gió trong hoàng cung nổi lên ầm ầm vì những điều trái với luân thường đạo lý do Trần Thủ Độ gây ra. Phế Hoàng Hậu của vua, bắt chị dâu đang có thai gả cho em chồng để nối nghiệp nhà Trần. Chia cắt hai mối tình lớn của hai anh em Trần Liễu và Trần Cảnh với hai chị em Chiêu Cảm và Chiêu Thánh công chúa dòng họ Lý. Họ vùng vẫy trong tuyệt vọng, nhưng cuối cùng vẫn phải đầu hàng nghịch cảnh. Trần Liễu với đội quân tinh nhuệ kéo về Thăng Long đòi vợ, nhưng đã bị Trần Thủ Độ dẹp tan và ban tội chết, may nhờ ông em Hoàng Đế đứng ra che chở mới giữ được mạng sống. Phần ông em Hoàng Đế cũng đau khổ muôn vàn, vừa mất Ái Hậu yêu quý, vừa phải loạn luân với chị dâu. Thôi đành bỏ ngai vàng lên núi Yên Tử đi tu, nhưng nghiệp trần chưa trả hết, nợ núi sông còn réo gọi với quân Nguyên, nên gặp Thiền sư Phù Vân khuyên giải trở về. Chuyến đi "Thoát vòng tục lụy" của Vua Thái Tông không thành mà còn liên lụy đến cả trăm phi tần, cung nữ kéo theo tìm ngài, rồi làm áp lực nhảy tập thể xuống Suối Giải Oan trầm mình.

 

Sự trở về của vua Trần Thái Tông đã đánh dấu một sự kiện lịch sử hào hùng nhất cho nước Việt, với Hội nghị Diên Hồng thăm dò ý kiến toàn dân, với Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người đã vì "Nợ nước quên thù nhà", gác lại lời trăn trối của cha là Trần Liễu mà giúp "kẻ thù nhà" chống lại quân Mông Cổ đang đem quân sang dày xéo quê hương.

 

"Toàn dân nghe chăng... Sơn hà nguy biến... Hận thù đằng đằng. Nên hòa hay chiến? 

-  Quyết chiến! Quyết chiến! 

                ……..

Thế việc nước nguy biến lấy gì lo chiến chinh?

-  Hy sinh! Hy sinh! ".

 

Ôi lời bài hát Hội Nghị Diên Hồng sao hùng khí ngất trời! Khi toàn dân đồng một lòng chống ngoại xâm thì Thái tử Thoát Hoan chỉ còn nước chui vào ống cống để chạy thoát về Tàu. 

 

Đến đời vua Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của nhà Trần, còn gọi là Giác Hoàng hay Phật Hoàng, sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm ở núi Yên Tử. Ngài kết hôn với con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tức Khâm Từ Hoàng Hậu, sinh được hai trai, hai gái. Một người là vua Trần Anh Tông và người con gái út là Huyền Trân Công Chúa chào đời vào năm 1287. Khi ấy Thượng Tướng Trần Khắc Chung đã hơn 40 tuổi (1247 - 1330), nếu lúc đó có bài hát "Sáu mươi năm cuộc đời" của Y Vân thì phải đổi lại là "Năm anh bốn mươi, em mới sinh ra đời" và "Ngày anh sáu mươi, em mới vừa đôi mươi". Nhưng thôi, trích dẫn như thế cho chúng ta rõ ràng về sự chênh lệch tuổi tác của hai người, đừng thêu dệt những gì không đẹp cho một nửa sự thật đã được sử sách nghiên cứu lại. 

Năm 1294 khi Huyền Trân Công Chúa được 7 tuổi, trong ngày xuất gia của vua cha Trần Nhân Tông tại chùa Bút Tháp, lúc ấy đã truyền ngôi cho con trai Trần Anh Tông, có sự tham dự của Thượng Tướng Trần Khắc Chung, cô Công Chúa bé nhỏ đã hỏi chú Trần Khắc Chung một số các thắc mắc mà nàng không thể hiểu trong buổi lễ xuất gia của phụ hoàng. Sau đó Thượng Hoàng Trần Nhân Tông dưới lớp áo của một tăng lữ đi đến Vijaya, còn gọi là Đồ Bàn, kinh đô của vương quốc Chiêm Thành. Vân du sơn thủy nhiều năm, mãi đến đầu năm 1301 Giác Hoàng mới đến đèo Hải Vân và được vua Chế Mân tiếp đón long trọng tại kinh đô Vijaya. Họ là một liên minh quân sự trong việc phòng chống các cuộc xâm lăng của quân Nguyên trước đây. 

 

Giác Hoàng thấy vua Chế Mân là một anh tài hiếm có, lại khôi ngô đĩnh đạc, nên chợt nghĩ đến Huyền Trân Công Chúa nàng con gái út mới được 14 tuổi. Nếu ta kết mối tơ duyên cho họ chẳng phải là điều tốt hay sao? Cớ nỗi Chế Mân đã quá 40 hơn Huyền Trân Công Chúa khá nhiều và đã có Hoàng Hậu Tapasi chánh cung người Java thuộc nước Indonesia. Nhưng có lẽ do duyên trời se kết, khi Giác Hoàng mở lời hứa hôn sẽ gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân khi nàng tròn 18 tuổi, vị vua này mừng rỡ khôn cùng, đêm ngày ôm gối mộng mơ tưởng đến người đẹp phương xa. Đến lúc này Giác Hoàng chỉ kết mối tơ duyên cho đôi trẻ vì lý tình thế thôi, chẳng nghĩ gì đến sính lễ đất đai. Chỉ đến khi về lại quê nhà, đem câu chuyện hứa hôn ra bàn với triều thần mới xảy ra tranh cãi. Ông vua con Trần Anh Tông cứ cho em gái mình là lá ngọc cành vàng, gả cho Mường Mán dễ dàng như vậy không được, ít nhất sính lễ phải là hai châu Ô và Lý mới bằng lòng. Dân gian chả có các câu vè hay sao:

 

Tiếc thay cây quế giữa rừng. 

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.

Hay văn vẻ hơn:

Tiếc thay một đóa Trà My.

Con ong con bướm tiếc gì cái hương.

 

Thượng Tướng Trần Khắc Chung cũng đồng ý đòi hai Châu Ô, Lý mới chịu hy sinh cô Công Chúa bé nhỏ mình ưa thích. Rồi cả hai dẫn nhau đến dinh của Hưng Đạo Vương hỏi ý kiến bậc lão thành, bộ ba này đưa ra điều kiện sính lễ hai châu Ô và Lý, từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế đến phía bắc Quảng Trị, có thuận mới được rước dâu. 

 

Ôi chao! Lại làm Chế Mân đau đầu rồi! Chàng phải triệu tập các bô lão trong thành làm cuộc trưng cầu dân ý, xem lòng dân có thuận hay không? Hai vùng đất ấy rất hoang tàng hẻo lánh, dân cư thưa thớt nên dân chúng Chiêm Thành cũng đành bấm bụng để Chế Mân đem đi đổi lấy Huyền Trân Công Chúa xinh đẹp của xứ Đại Việt kề bên. 

 

Bắt đầu từ đây Công Chúa phải học tiếng Chiêm và phong tục tập quán của xứ chồng tương lai. Oái oăm thay người dạy nàng ở Thiên Trường Phủ và Quốc Tử Giám tại Thăng Long chính là chú Trần Khắc Chung yêu quý của nàng. 

 

Chàng là quan lớn qua 4 triều đại nhà Trần, từ Nhân Tông đến Anh Tông, bước sang Minh Tông và cuối cùng là Hiến Tông. Đã giữ trong tay biết bao chức vụ từ Đại Hành Khiển đến Tể Tướng, Thượng Thư, Ngự Sử Đại Phu, Đại an phủ kinh sư, Quan nội hầu, Sư bảo, cuối đời đạt được địa vị cực phẩm. 

Một người tài hoa oai hùng như thế lại có nhiều cơ hội gần gũi một người con gái thánh thiện với sắc đẹp quý phái tươi mát rực rỡ như Huyền Trân Công Chúa, chả trách gì thiên hạ không gán ghép cho mối tình của họ. 

 

Dù bị gán ghép oan hay yêu nhau thật, họ vẫn làm tròn bổn phận và nhiệm vụ một cách hoàn chỉnh. Đến năm 1306 vua Anh Tông cử sứ thần là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi sang Chiêm quốc cùng phái đoàn rước dâu do Thượng Tướng Trần Khắc Chung chỉ huy hộ tống Huyền Trân Công Chúa sang xứ chồng, lúc ấy nàng vừa tròn 19 tuổi. 

"Nước non ngàn dặm ra đi. Mối tình chi. Mượn màu son phấn. 

Đền nợ Ô-Lý. Đắng cay vì đương độ xuân thì..."

 

Nàng được vua Chế Mân trân quý, phong cho làm Vương Hậu Paramecvari. Nhờ được sửa soạn kỹ lưỡng cho chuyến đi lịch sử "Đền nợ Ô-Lý" này, nên nàng đã thông thạo tiếng Chiêm và quen biết các phong tục tập quán của xứ sở Chiêm, đa số là Bà La Môn với lối kiến trúc đền đài cung điện thật cầu kỳ và đặc sắc.

 

Sau một năm hương lửa mặn nồng, nàng sinh được hoàng nam Chế Đa Đa trong bầu trời hạnh phúc do Chế Mân mang đến và che chở cho nàng. Những tưởng cuộc đời là những áng mây hồng, nhưng mây đen kéo đến liền tay không ai có thể ngờ tới được khi vua Chế Mân đột ngột qua đời. Cái chết đầy bí ẩn không rõ vì bệnh tật hay có kẻ ra tay muốn soán vị ngai vàng, những kẻ phản phúc của nước Chiêm và bọn sứ đoàn nhà Nguyên không khoanh tay ngồi nhìn hai nước Chiêm-Việt kết thân. Tin sét đánh đưa về đến quê nhà, cả triều đình nhà Trần chấn động. Không lo sao được khi hai mẹ con Huyền Trân thân cô thế cô trên xứ lạ quê người khi không còn Chế Mân che chở. Lại nghe thêm tập tục hỏa thiêu theo chồng của người Chiêm, nghĩa là Hoàng Hậu sẽ được vinh dự cùng hỏa táng với Quân Vương trên một dàn thiêu. Vua Anh Tông xót thương em gái vô cùng, đã cử Thượng Tướng Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Vân cùng đoàn tùy tùng sang phúng điếu, nhưng bên trong lập mưu đưa Huyền Trân về cố quốc và chỉ một mình người mẹ chứ không thể đem cả hoàng nhi.

 

Sứ thần nước Việt đã thuyết phục vua Chiêm Chế Chí mới lên kế vị cho lập đàn chiêu hồn bên bờ sông, rồi cho thuyền mai phục sẵn đưa Vương Hậu Paramecvari bỏ trốn.

 

Khi biết chuyện triều đình Chiêm quốc rất tức giận, vừa mất Vương Hậu vừa mất đất đai. Đâu phải chỉ mất hai Châu Ô, Lý cho cái xứ Đại Việt này thôi, mà lịch sử của 200 năm trước đã mất ba Châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính rồi. Chính vua Chế Củ đã dâng cho vua Lý đó thôi! 

 

Triều đình Chiêm quốc tuyệt giao với Đại Việt là đúng! Cứ xử ép họ mãi như thế, dám cướp Vương Hậu Paramecvari đem đi biệt tăm, chia cắt tình mẫu tử với Hoàng tử Đa Đa và niềm đau mất hai Châu Ô-Lý còn đang canh cánh bên lòng. Nhưng với thân phận nước nhược tiểu đành phải nuốt hận chờ thời. 

 

Ngoài ra chuyện quan quân nhà Trần bắt buộc phải cứu Huyền Trân để khỏi bị đưa vào giàn thiêu theo Chế Mân là suy đoán không đúng. Theo tục lệ đạo Bà La Môn, truyền thống Champa xưa, nếu có hỏa thiêu theo Quân Vương, chỉ Hoàng Hậu chánh thất mới được cái vinh dự ấy và sau 7 ngày phải hoàn tất chuyện đó vì thời tiết nóng bức, chứ không để cả 4 tháng trời chờ đợi tin qua thư về mà người vẫn y nguyên. Một sự thật nữa là Hoàng Hậu Tapasi sau này cũng được cho trở về cố hương xứ Indonesia.

 

Đoạn Sử gia Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê lên án Huyền Trân đã "tư thông" với Trần Khắc Chung, đã cùng nhau chung thuyền lênh đênh trên sóng nước những ba tháng trời, nghĩ lại không có cơ sở? Chỉ đúng cho một màn cải lương "Cây quạt lụa hồng" được dàn dựng lên để lấy nước mắt và cảm xúc của khán giả chứ không lô-gíc vì những lý do sau:

.  An phủ sứ Đặng Vân cùng đoàn tùy tùng đi ngã nào? 

. Tại bãi biển Thị Nại vùng Quy Nhơn-Bình Định vào tháng 9, tháng 10 mưa bão liên miên, một chiếc thuyền nhỏ có thể bám biển chống chọi với phong ba bão tố tới ba tháng được không? 

. Vương Hậu Paramecvari vừa sinh nở xong, nỗi đau mất chồng, xa con, thân phận lạc loài... có còn lạc thú để du dương với chú và cũng là thầy Trần Khắc Chung đã ngoài sáu chục. 

 

Cũng giống như câu chuyện Tây Thi - Phạm Lãi thời Đông Châu liệt quốc, thiên hạ tiếc thương mối tình của họ nên tự vẽ vời ra chuyện Phạm Lãi chèo thuyền đưa Tây Thi du ngoạn Động Đình Hồ cho thêm phần lãng mạn. Còn hơn để Câu Tiễn giết chết hay bà vợ ghen tuông của Câu Tiễn vùi dập.

 

Số phận về sau của Vương Hậu Paramecvari rất ư là có hậu. Chỉ một năm sau, nàng xin Giác Hoàng cho Quy Y với Pháp danh Hương Tràng, rồi xuất gia tu hành, thọ Bồ Tát Giới tại chùa Quảng Nghiêm (Nam Định), sống đời đạo hạnh cho đến năm 1340 thì về đất Phật, thọ mạng 53 tuổi. Góa chồng từ tuổi 20, bà đã tinh tấn tu hành suốt trong 33 năm, bỏ mặc ngoài đời những tiếng thị phi khen chê, được mất thường tình. Mộ của Bà được chôn ở chùa Nộn Sơn tỉnh Nam Định, rất được mọi người chiêm bái và ngưỡng mộ. Nhất là ở tỉnh Thừa Thiên Huế, nhân gian tạo tượng và lập đền thờ Bà, một vị Công Chúa tài hoa xinh đẹp và có công nhất trong việc mở mang bờ cõi về phương Nam với hình hài là một Ni Sư. Không có Huyền Trân Công Chúa với nước non ngàn dặm ra đi như thế thì làm gì có kinh đô Huế cho nhà Nguyễn dựng nước. Dân chúng ở đây đặc biệt với Bà như thế cũng phải!

 

Cây quạt lụa hồng-2 

Huyền Trân Công Chúa, một anh thư rực sáng của nền trời nước Việt! 

 

Hoa Lan - Thiện Giới. 

Mùa thu 2020.

 

 

Nguồn tài liệu tham khảo:

 

. Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, Hòa Thượng Thích Như Điển, 2019.

. Trần Khắc Chung, Ngô Viết Trọng, 2009.

 

. hptt://nguoikesu.com

. hppt://m.trithucvn.net

. htppt://vi.wikipedia.org

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 7549)
Tâm linh là sự kiện phi vật thể, đối lập với duy vật. Hầu hết các tôn giáo đều mang tính chất tâm linh; tín ngưỡng tâm linh của các tôn giáo không thuần nhất, tùy trình độ, căn cơ và khuynh hướng của mỗi loại tín ngưỡng mà có chánh tín và tà tín.
07/05/2015(Xem: 14287)
(Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn Độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.) - Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng? - Tâu, vâng. - Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?
06/05/2015(Xem: 8725)
Đời sống là một chuỗi những câu chuyện xen lẫn nhau, không phải là những khái niệm. Khái niệm thì khác xa với sự thật. Do vậy, một câu chuyện được kết cấu với tình tiết phong phú và có ý nghĩa thì gần gũi với đời sống thực tế. Đó là lý do tại sao chúng ta dễ dàng liên hệ với đời sống qua các câu chuyện hơn là những lý thuyết trừu tượng. Và đó cũng là lý do mà thầy Ajahn Brahm - tu sĩ người Anh, Tu viện trưởng rừng thiền Bodhinyana và là Giám đốc hội Phật học Tây Úc - chọn cách giảng dạy, trình bày pháp thông qua những câu chuyện.
01/05/2015(Xem: 8880)
HỎI: Tôi vì học tập và công việc nên sống xa nhà, hiện đang ở trọ một mình. Gia đình tôi thờ Phật, trước đây mỗi ngày tôi đều tụng kinh, lạy Phật. Hiện nơi tôi ở trọ cách chùa rất xa, việc đến chùa lạy Phật hàng ngày rất khó khăn. Gần đây, tôi được người quen tặng một bức tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi vui lắm và mong được thờ Ngài trong phòng để tiện tụng niệm, lễ bái. Nhưng tôi rất băn khoăn vì phòng trọ rất nhỏ hẹp, bạn bè thường hay tới chơi, đôi khi có cả bạn trai của tôi đến nữa. Xin hỏi, tôi thờ Bồ-tát có trong phòng trọ có được không? Nếu được thì quy cách như thế nào để không phạm lỗi bất kính?
01/05/2015(Xem: 30611)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
30/04/2015(Xem: 12927)
Quán Âm Tình Vô Lượng Mẹ về với những yêu thương Dịu dàng trên sóng trùng dương Mẹ về Mắt buồn xót cõi đời mê Dáng Từ phủ khắp sơn khê .. Mẹ ngồi Con tim Mẹ chứa cõi đời Lắng sâu như lượng trùng khơi dạt dào Tình Người vời vợi trăng sao Đường trần bóng Mẹ ngọt ngào chở che..
30/04/2015(Xem: 8474)
Hunzas – Bộ tộc 900 năm trở lại đây không có ai bị ung thư Trên thế giới có nhiều dân tộc kỳ lạ, mà những đặc điểm của họ khiến người ta phải kinh ngạc, bộ tộc mà chúng tôi muốn giới thiệu ở đây là bộ tộc Hunzas, họ là tộc người khỏe mạnh nhất trên toàn thế giới.
27/04/2015(Xem: 12129)
Thư Mời Tham Dự Khóa Tu Mùa Hè tại San Jose, California
27/04/2015(Xem: 7654)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
26/04/2015(Xem: 12461)
Ajahn Chah sinh năm 1918 trong một ngôi làng phía Bắc Thái Lan. Ngài xuất gia từ lúc còn nhỏ và trở thành một vị tỳ khưu năm 20 tuổi. Ngài theo truyền thống hành đầu đà của các sơn tăng trong nhiều năm. Hằng ngày mang bát xin ăn, chuyên tâm hành thiền và đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp. Ajahn Chah hành thiền dưới sự chỉ dẫn của nhiều thiền sư danh tiếng trong đó có ngài Ajahn Mun, một vị thiền sư nổi tiếng và được kính trọng vào thời bấy giờ. Ajahn Chah đã chịu nhiều ảnh hưởng của ngài Ajahn Mun. Ajahn Chah là một thiền sư tuyệt diệu, Ngài đã dạy đạo một cách trực tiếp, rõ ràng, và tận tụy chia sẻ sự chứng nghiệm giáo pháp của mình cho những người đến sau. Lời dạy của Ngài thật đơn giản: "Hãy để sự vật tự nhiên, đừng dính mắc. Hãy xả bỏ tất cả. Sự vật thế nào, hãy để y như vậy". Ajahn Chah viên tịch vào ngày 16 tháng Giêng, 1992 ở Wat Pah Pong, tỉnh Ubon Ratchathani.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]