Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Từ Minh Thạch Sương Sở Viên (986-1039) Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

17/03/202104:58(Xem: 17726)
Thiền Sư Từ Minh Thạch Sương Sở Viên (986-1039) Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️


 


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về thiền sư Từ Minh Sở Viên (986-1039), Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.

Ngài họ Lý quê ở Thanh Tương, Toàn Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Khi chưa xuất ngài làm thư sinh, học văn chương. Đến năm 22 tuổi ngài phát tâm xuất gia ở Ẩn Tỉnh Tự ở Tương Sơn (thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay) được Mẹ ngài ủng hộ và khuyên con trai nên đi du phương tìm thầy học đạo. Nghe danh ở Phần Dương có Thiền sư Thiện Chiêu là một vị thiện tri thức bậc nhất, Ngài bất chấp mọi khó khăn trong thời chiến tìm đến Thầy học đạo. Thiền Sư Phần Dương thấy ngài liền thầm nhận cho nhập chúng.

Ngài ở đây hai năm hầu thầy, làm công quả nhưng chưa được nhập thất, mỗi lần Ngài vào tịnh thất thưa hỏi Phật pháp đều bị Sư phụ chửi mắng thậm tệ bằng những lời thô tục của thế gian. Một hôm ngài tự than rằng “Từ ngày đến đây tu học đã trải qua hai năm rồi mà không được dạy bảo, chỉ làm tăng trưởng niệm thế tục trần lao, năm tháng qua nhanh, việc mình chẳng sáng, mất cái lợi của kẻ xuất gia." Sư phụ Phần Dương Thiện Chiêu nhìn thẳng vào mặt ngài và mắng: "Đây là ác tri thức, sao người dám bán đứng ta", rồi cầm gậy đuổi đánh. Ngài kêu la cầu cứu, Sư phụ Phần Dương liền bịt miệng ngài lại. Ngài bỗng nhiên đại ngộ và nói: "Mới biết đạo Lâm Tế vượt khỏi thường tình”. Và ngài ở lại hầu hạ Sư phụ Phần Dương bảy năm.

Sư phụ giải thích: Thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu là thiền sư chuyên dùng thuốc đắng (lời thô tục, đánh đập) làm phương pháp giáo hóa, khai thị cho đệ tử, nếu đệ tử không vượt qua được thử thách cam go này sẽ mất lợi lớn.

Sau 7 năm hầu Thầy, Ngài được Thái thú Nghi Xuân là Huỳnh Tông Đán cung thỉnh về trụ trì Chùa Nam Nguyên. Sau khi trụ trì, Ngài thăng tòa dạy chúng: “ Tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này ra”. Ngài dựng đứng cây gậy và nói: “Cái này là cây gậy của Nam Nguyên, cái gì là kinh ?”. Nói xong ngài xuống toà về phương trượng.

Sư Phụ giải thích, tất cả kinh do Đức Phật nói trong 45 năm đều hợp khế lý và khế cơ. Khế lý, nội dung của lời Đức Phật đặt trên nền tảng trung đạo, không dính vào sự đối đãi, dù mặt trời có tắt, mặt trăng có rơi, lời Phật dạy vẫn luôn là chân lý. Khế cơ, lời Phật dạy hợp từng căn cơ của tất cả chúng sanh bất cứ ở đâu, trời người địa ngục đều có thể tu tập đến giải thoát và giác ngộ, xuyên suốt vượt không gian và thời gian.

Kinh Phật dung chứa năm nghĩa:
1- xuất sinh, từ kinh Phật lưu xuất ra tất cả công đức thiện pháp nhiệm mầu. Sư Phụ nêu ra, ngài Lục Tổ Huệ Năng chỉ nghe 8 chữ vàng cứu khổ trong kinh Kim Cang:“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà cứu đời khổ lụy của Ngài.
2- Tuyền dũng: kinh như dòng suối chảy mạnh, làm trôi hết tất cả phiền não trong tâm.
3- Hiển thị: kinh làm rõ bày hết tất cả chân lý, pháp môn giúp chúng sanh tu tập để giải thoát.
4- Thằng mặc: kinh Phật là dây mực, thước đo, là tiêu chuẩn để ta nương vào mà tu, mà đo đạt lộ trình tu của mình để mà thăng hoa trên nẻo đạo.
5- Kiết man: kinh thu kết, thấu nhiếp tất cả pháp môn thiền, tịnh, mật, để chúng sanh nương vào đó mà tu tập để giác ngộ.

Sư phụ giải thích thêm: Thiền Sư Từ Minh chỉ vào cây gậy và bảo “Tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này ra”, là trực chỉ cho chúng đệ tử nhìn thấy cậy gây ngay đó là nhận ra cái thấy của mình trong giờ phút hiện tại đó, là nhận ra “tất cả tam tạng”, nếu không nhận ra tánh thấy ngay đó thì đời mình vẫn luôn trầm luân đau khổ.

Về sau, Ngài về trụ trì Chùa Thạch Sương, ngài thượng đường khai thị: “Hương Nghiêm ngộ thế ấy là rõ ràng ngộ Như Lai thiền, Tổ sư thiền còn chưa thấy được. Hãy nói Tổ sư thiền có cái gì đặc biệt? Nếu nhằm trong lời nói mà nhận thì lừa bịp người sau. “.

Sư Phụ giải thích về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền, tuy hai mà một, tuy một mà hai, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh và trình độ của hành giả.
Như Lai thiền: hành giả phải qua quá trình tiệm tu mà đốn ngộ.
Tổ Sư thiền: là hành giả đốn ngộ do tiệm tu.

Như Lai thiền do Đức Phật giảng dạy trong suốt 45 năm theo tuần tự, người đệ tử phải tu tập “5 thiền chi”: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm, để đoạn trừ “5 triền cái”: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi, đó là năm chướng ngại che mờ tâm trí, đưa đến luân hồi sanh tử.

Hoàn tất 5 thiền chi, hành giả sẽ chứng:
Sơ Thiền: không còn tham dục và ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất với trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Nhị Thiền: diệt tầm tứ với trạng thái hỷ lạc do định sanh, chứng thiền thứ hai.
Tam Thiền: ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, xả niệm lạc thú, chứng và trú tầng thiền thứ 3.
Tứ Thiền: xả lạc khổ, diệt hỷ ưu, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng và trú thiền thứ tư.

Sư phụ cũng giải thích rõ: cùng lúc đạt tứ thiền, hành giả lần lượt chứng 4 quả vị Thanh Văn:
1/ Tu Đà Hoàn: hành giả phá trừ 3 kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi (hành giả còn tái sanh 7 lần, thất lai)
2/Tư Đà Hàm: hành giả đã loại trừ: làm nhẹ dần 2 kiết sử: Dục và Sân hận (hành giả còn tái sanh 1 lần, nhất lai)
3/A Na Hàm: hành giả tận diệt sạch sẽ 5 hạ phần kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi, tham dục và sân hận (hành giả không còn tái sanh nữa, bất lai)
4/ A La Hán: hành giả tiếp tục đoạn tận 5 thượng phần kiết sử còn lại: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử và vô minh, chứng quả A La Hán, đây là quả vị Thánh Thanh Văn, cao siêu cuối cùng, hành giả đã đạt được sự giải thoát giác ngộ viên mãn, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết (viên tịch) lúc nào cũng được tự tại như ý. Một vị chứng quả A La Hán sẽ có đầy đủ Tam Minh và Lục Thông, tuy nhiên, do phước duyên mỗi vị khác nhau, mức độ về Thần Thông có thể khác nhau.


Tổ Sư thiền, chư tổ Sư không dạy dài dòng, trực chỉ chơn tâm kiến tánh thành Phật. Tức tâm tức Phật, ngay tâm này là Phật, nhận ra Phật ngay tâm mình là Phật, là giải thoát.

Vào niên hiệu Bảo Nguyên, quan đại thần đô uý Lý Công, biết trước giờ chết, cho thỉnh ngài Từ Minh đến để từ biệt ra đi.
Sư hỏi: “thế nào là Phật tánh xưa nay”.
Quan đại thần đáp: “hôm nay nóng như hôm qua”.
Quan Lý công hỏi lại Sư: “một năm sắp đi như thế nào?”.
Sư bảo: “xưa nay không ngăn ngại, tuỳ chỗ mặc nhiên tròn”. Sư Phụ giải thích là tuỳ nơi để thọ sanh, giáo hoá.
Quan Lý công, giờ phút chót, vẽ hình tròn và làm bài thơ tặng Sư.
Quan Lý công vui vẻ thị tịch.

Vua Tống Nhân Tông cho lính hộ tống đưa Sư trở về. Thuyền đi giữa đường, Sư bảo thị giả: “ta vừa bịnh phong”. Thị giả nhìn thấy Sư bị méo mặt qua một bên. Thị giả nói: “tại sao lúc bình thường, Sư phụ quở Phật mắng tổ mà hôm nay lại bệnh như thế này ?”

Sư bảo: “đừng có lo, ta sẽ vì ngươi mà sửa lại ngay”, nói xong, Sư lấy tay sửa miệng lại ngay ngắn và nói: “từ nay về sau chẳng nhọc đến ngươi”.

Sư phụ giải thích: Sư là vị đã chứng ngộ, có thần thông, thị hiện thân bệnh để cảnh tỉnh chúng sanh.

Một năm sau, vào ngày mùng 5 tháng giêng năm 1041, Sư tắm gội, ngồi kiết già rồi từ biệt an nhiên thị tịch. Sư thọ thế 54 năm, 32 tuổi hạ.

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về cốt tủy lời dạy của thiền sư Từ Minh Sở Viên về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền, quả thật Phật pháp bất tư nghì, con nguyện phát tâm cầu học ngay từ hôm nay để lần theo bước chân của quý Ngài.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).

 

 

213_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tu Minh





Sư Tử Lông vàng Tây Hà -Chỗ không Phật làm Phật !

(Chỗ chỗ đều Từ Thị - Cửa cửa thấy Thiện Tài )

Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Thiền Sư Từ Minh Sở Viên . Kính tri ân Thầy với những yếu chỉ để đạt được tứ thiền ...nhưng hiện giờ sơ thiền vẫn chưa dẫm chân vào được Thầy ạ, căn cơ quá thấp chưa hội chỉ biết tu Phước nhiều và giữ giới hầu có đủ thuận duyên kiếm chút Tuệ may ra có Định ...Kính chúc Thầy pháp thể khinh an ...Con, kính, HH 


Thư sinh, hai hai tuổi xuất gia cầu Đạo !

Bất chấp chướng ngại, giặc giả đến Phần Dương, 

Bị quở đánh “ Ác Tri thức” ....hai năm chẳng tỏ tường. 

Chợt ngộ đạo ...được bịt miệng khi kêu cứu !



“Đạo Lâm Tế vượt thường tình” ...nguyện trú, thủ !

Bảy năm dưới trướng được khuyến khích du hoá phương Nam, 

Dương Đại Niên , Lý Đô Uý kết bạn giao thâm 

Sư Tử Lông Vàng Tây Hà .... uy danh thật đúng ! 



Nhớ lời Sư Phụ, tìm Thiền Sư Hiểu Thông... thủ chúng 

Ba năm tại Đông Sơn, về đến Nam Nguyên

Giáo hoá thượng đường... "Phật ...Nước chảy cao nguyên ! 

Người trong cảnh " Theo dòng người chẳng đoái " .



“Nghe danh không bằng thấy mặt"  lộ bày khí khái !

Cao phong ...Sư  Ông Thần Đảnh vẫn  giật mình, 

“ Tịnh thất ngã “ đệ tử không bình tĩnh hoảng kinh 

Từ đấy tại Đạo Ngô, Thạch Sương, yếu chỉ kinh .... gậy ! 

An thân lập mạng triển khai Tam Huyền để ....THẤY

 "Gậy nằm ngang, khêu động cả càn khôn đại địa. 

Úp bát xuống, che đậy hà sa thế giới. "



Kính đa tạ Giảng Sư ...ý nghĩa chữ Kinh 

Tuyền dũng, Thằng mặc, Hiển  thị , Yết ma, Xuất  sinh, 

Còn chỉ rõ làm thế nào vào Lạc, Hỷ ...Định, 

Bài pháp thoại quá tuyệt vời ..tự  mình thanh tịnh 



"Chỗ chỗ đều Từ Thị.-Cửa cửa gặp Thiện Tài "

Chỗ không Phật làm Phật ...kiến tánh vui thay ! 

Sanh tử bình thường như khoác vào áo mới. 

Kính đảnh lễ Thiền Sư Từ Minh Sở Viên ... tạo niềm phấn khởi ! 



Đốn ngộ, tiệm tu  do bởi căn cơ 

Đích đến cứu cánh chẳng tột ...đến bao giờ ? 

Thuốc nhiều bịnh lắm, lưới dày cá đặc! 



Huệ Hương 

Melbourne 16/3/2021 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16035)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3723)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6090)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6291)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3986)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8326)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15607)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10836)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7924)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]