Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Từ Minh Thạch Sương Sở Viên (986-1039) Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

17/03/202104:58(Xem: 18025)
Thiền Sư Từ Minh Thạch Sương Sở Viên (986-1039) Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️


 


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về thiền sư Từ Minh Sở Viên (986-1039), Ngài thuộc đời thứ 11 sau Lục Tổ Huệ Năng và là Tổ thứ 7 của Thiền Phái Lâm Tế.

Ngài họ Lý quê ở Thanh Tương, Toàn Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Khi chưa xuất ngài làm thư sinh, học văn chương. Đến năm 22 tuổi ngài phát tâm xuất gia ở Ẩn Tỉnh Tự ở Tương Sơn (thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay) được Mẹ ngài ủng hộ và khuyên con trai nên đi du phương tìm thầy học đạo. Nghe danh ở Phần Dương có Thiền sư Thiện Chiêu là một vị thiện tri thức bậc nhất, Ngài bất chấp mọi khó khăn trong thời chiến tìm đến Thầy học đạo. Thiền Sư Phần Dương thấy ngài liền thầm nhận cho nhập chúng.

Ngài ở đây hai năm hầu thầy, làm công quả nhưng chưa được nhập thất, mỗi lần Ngài vào tịnh thất thưa hỏi Phật pháp đều bị Sư phụ chửi mắng thậm tệ bằng những lời thô tục của thế gian. Một hôm ngài tự than rằng “Từ ngày đến đây tu học đã trải qua hai năm rồi mà không được dạy bảo, chỉ làm tăng trưởng niệm thế tục trần lao, năm tháng qua nhanh, việc mình chẳng sáng, mất cái lợi của kẻ xuất gia." Sư phụ Phần Dương Thiện Chiêu nhìn thẳng vào mặt ngài và mắng: "Đây là ác tri thức, sao người dám bán đứng ta", rồi cầm gậy đuổi đánh. Ngài kêu la cầu cứu, Sư phụ Phần Dương liền bịt miệng ngài lại. Ngài bỗng nhiên đại ngộ và nói: "Mới biết đạo Lâm Tế vượt khỏi thường tình”. Và ngài ở lại hầu hạ Sư phụ Phần Dương bảy năm.

Sư phụ giải thích: Thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu là thiền sư chuyên dùng thuốc đắng (lời thô tục, đánh đập) làm phương pháp giáo hóa, khai thị cho đệ tử, nếu đệ tử không vượt qua được thử thách cam go này sẽ mất lợi lớn.

Sau 7 năm hầu Thầy, Ngài được Thái thú Nghi Xuân là Huỳnh Tông Đán cung thỉnh về trụ trì Chùa Nam Nguyên. Sau khi trụ trì, Ngài thăng tòa dạy chúng: “ Tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này ra”. Ngài dựng đứng cây gậy và nói: “Cái này là cây gậy của Nam Nguyên, cái gì là kinh ?”. Nói xong ngài xuống toà về phương trượng.

Sư Phụ giải thích, tất cả kinh do Đức Phật nói trong 45 năm đều hợp khế lý và khế cơ. Khế lý, nội dung của lời Đức Phật đặt trên nền tảng trung đạo, không dính vào sự đối đãi, dù mặt trời có tắt, mặt trăng có rơi, lời Phật dạy vẫn luôn là chân lý. Khế cơ, lời Phật dạy hợp từng căn cơ của tất cả chúng sanh bất cứ ở đâu, trời người địa ngục đều có thể tu tập đến giải thoát và giác ngộ, xuyên suốt vượt không gian và thời gian.

Kinh Phật dung chứa năm nghĩa:
1- xuất sinh, từ kinh Phật lưu xuất ra tất cả công đức thiện pháp nhiệm mầu. Sư Phụ nêu ra, ngài Lục Tổ Huệ Năng chỉ nghe 8 chữ vàng cứu khổ trong kinh Kim Cang:“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà cứu đời khổ lụy của Ngài.
2- Tuyền dũng: kinh như dòng suối chảy mạnh, làm trôi hết tất cả phiền não trong tâm.
3- Hiển thị: kinh làm rõ bày hết tất cả chân lý, pháp môn giúp chúng sanh tu tập để giải thoát.
4- Thằng mặc: kinh Phật là dây mực, thước đo, là tiêu chuẩn để ta nương vào mà tu, mà đo đạt lộ trình tu của mình để mà thăng hoa trên nẻo đạo.
5- Kiết man: kinh thu kết, thấu nhiếp tất cả pháp môn thiền, tịnh, mật, để chúng sanh nương vào đó mà tu tập để giác ngộ.

Sư phụ giải thích thêm: Thiền Sư Từ Minh chỉ vào cây gậy và bảo “Tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề của chư Phật đều từ kinh này ra”, là trực chỉ cho chúng đệ tử nhìn thấy cậy gây ngay đó là nhận ra cái thấy của mình trong giờ phút hiện tại đó, là nhận ra “tất cả tam tạng”, nếu không nhận ra tánh thấy ngay đó thì đời mình vẫn luôn trầm luân đau khổ.

Về sau, Ngài về trụ trì Chùa Thạch Sương, ngài thượng đường khai thị: “Hương Nghiêm ngộ thế ấy là rõ ràng ngộ Như Lai thiền, Tổ sư thiền còn chưa thấy được. Hãy nói Tổ sư thiền có cái gì đặc biệt? Nếu nhằm trong lời nói mà nhận thì lừa bịp người sau. “.

Sư Phụ giải thích về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền, tuy hai mà một, tuy một mà hai, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh và trình độ của hành giả.
Như Lai thiền: hành giả phải qua quá trình tiệm tu mà đốn ngộ.
Tổ Sư thiền: là hành giả đốn ngộ do tiệm tu.

Như Lai thiền do Đức Phật giảng dạy trong suốt 45 năm theo tuần tự, người đệ tử phải tu tập “5 thiền chi”: Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm, để đoạn trừ “5 triền cái”: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi, đó là năm chướng ngại che mờ tâm trí, đưa đến luân hồi sanh tử.

Hoàn tất 5 thiền chi, hành giả sẽ chứng:
Sơ Thiền: không còn tham dục và ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất với trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Nhị Thiền: diệt tầm tứ với trạng thái hỷ lạc do định sanh, chứng thiền thứ hai.
Tam Thiền: ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, xả niệm lạc thú, chứng và trú tầng thiền thứ 3.
Tứ Thiền: xả lạc khổ, diệt hỷ ưu, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng và trú thiền thứ tư.

Sư phụ cũng giải thích rõ: cùng lúc đạt tứ thiền, hành giả lần lượt chứng 4 quả vị Thanh Văn:
1/ Tu Đà Hoàn: hành giả phá trừ 3 kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi (hành giả còn tái sanh 7 lần, thất lai)
2/Tư Đà Hàm: hành giả đã loại trừ: làm nhẹ dần 2 kiết sử: Dục và Sân hận (hành giả còn tái sanh 1 lần, nhất lai)
3/A Na Hàm: hành giả tận diệt sạch sẽ 5 hạ phần kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi, tham dục và sân hận (hành giả không còn tái sanh nữa, bất lai)
4/ A La Hán: hành giả tiếp tục đoạn tận 5 thượng phần kiết sử còn lại: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử và vô minh, chứng quả A La Hán, đây là quả vị Thánh Thanh Văn, cao siêu cuối cùng, hành giả đã đạt được sự giải thoát giác ngộ viên mãn, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết (viên tịch) lúc nào cũng được tự tại như ý. Một vị chứng quả A La Hán sẽ có đầy đủ Tam Minh và Lục Thông, tuy nhiên, do phước duyên mỗi vị khác nhau, mức độ về Thần Thông có thể khác nhau.


Tổ Sư thiền, chư tổ Sư không dạy dài dòng, trực chỉ chơn tâm kiến tánh thành Phật. Tức tâm tức Phật, ngay tâm này là Phật, nhận ra Phật ngay tâm mình là Phật, là giải thoát.

Vào niên hiệu Bảo Nguyên, quan đại thần đô uý Lý Công, biết trước giờ chết, cho thỉnh ngài Từ Minh đến để từ biệt ra đi.
Sư hỏi: “thế nào là Phật tánh xưa nay”.
Quan đại thần đáp: “hôm nay nóng như hôm qua”.
Quan Lý công hỏi lại Sư: “một năm sắp đi như thế nào?”.
Sư bảo: “xưa nay không ngăn ngại, tuỳ chỗ mặc nhiên tròn”. Sư Phụ giải thích là tuỳ nơi để thọ sanh, giáo hoá.
Quan Lý công, giờ phút chót, vẽ hình tròn và làm bài thơ tặng Sư.
Quan Lý công vui vẻ thị tịch.

Vua Tống Nhân Tông cho lính hộ tống đưa Sư trở về. Thuyền đi giữa đường, Sư bảo thị giả: “ta vừa bịnh phong”. Thị giả nhìn thấy Sư bị méo mặt qua một bên. Thị giả nói: “tại sao lúc bình thường, Sư phụ quở Phật mắng tổ mà hôm nay lại bệnh như thế này ?”

Sư bảo: “đừng có lo, ta sẽ vì ngươi mà sửa lại ngay”, nói xong, Sư lấy tay sửa miệng lại ngay ngắn và nói: “từ nay về sau chẳng nhọc đến ngươi”.

Sư phụ giải thích: Sư là vị đã chứng ngộ, có thần thông, thị hiện thân bệnh để cảnh tỉnh chúng sanh.

Một năm sau, vào ngày mùng 5 tháng giêng năm 1041, Sư tắm gội, ngồi kiết già rồi từ biệt an nhiên thị tịch. Sư thọ thế 54 năm, 32 tuổi hạ.

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về cốt tủy lời dạy của thiền sư Từ Minh Sở Viên về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền, quả thật Phật pháp bất tư nghì, con nguyện phát tâm cầu học ngay từ hôm nay để lần theo bước chân của quý Ngài.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).

 

 

213_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tu Minh





Sư Tử Lông vàng Tây Hà -Chỗ không Phật làm Phật !

(Chỗ chỗ đều Từ Thị - Cửa cửa thấy Thiện Tài )

Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Thiền Sư Từ Minh Sở Viên . Kính tri ân Thầy với những yếu chỉ để đạt được tứ thiền ...nhưng hiện giờ sơ thiền vẫn chưa dẫm chân vào được Thầy ạ, căn cơ quá thấp chưa hội chỉ biết tu Phước nhiều và giữ giới hầu có đủ thuận duyên kiếm chút Tuệ may ra có Định ...Kính chúc Thầy pháp thể khinh an ...Con, kính, HH 


Thư sinh, hai hai tuổi xuất gia cầu Đạo !

Bất chấp chướng ngại, giặc giả đến Phần Dương, 

Bị quở đánh “ Ác Tri thức” ....hai năm chẳng tỏ tường. 

Chợt ngộ đạo ...được bịt miệng khi kêu cứu !



“Đạo Lâm Tế vượt thường tình” ...nguyện trú, thủ !

Bảy năm dưới trướng được khuyến khích du hoá phương Nam, 

Dương Đại Niên , Lý Đô Uý kết bạn giao thâm 

Sư Tử Lông Vàng Tây Hà .... uy danh thật đúng ! 



Nhớ lời Sư Phụ, tìm Thiền Sư Hiểu Thông... thủ chúng 

Ba năm tại Đông Sơn, về đến Nam Nguyên

Giáo hoá thượng đường... "Phật ...Nước chảy cao nguyên ! 

Người trong cảnh " Theo dòng người chẳng đoái " .



“Nghe danh không bằng thấy mặt"  lộ bày khí khái !

Cao phong ...Sư  Ông Thần Đảnh vẫn  giật mình, 

“ Tịnh thất ngã “ đệ tử không bình tĩnh hoảng kinh 

Từ đấy tại Đạo Ngô, Thạch Sương, yếu chỉ kinh .... gậy ! 

An thân lập mạng triển khai Tam Huyền để ....THẤY

 "Gậy nằm ngang, khêu động cả càn khôn đại địa. 

Úp bát xuống, che đậy hà sa thế giới. "



Kính đa tạ Giảng Sư ...ý nghĩa chữ Kinh 

Tuyền dũng, Thằng mặc, Hiển  thị , Yết ma, Xuất  sinh, 

Còn chỉ rõ làm thế nào vào Lạc, Hỷ ...Định, 

Bài pháp thoại quá tuyệt vời ..tự  mình thanh tịnh 



"Chỗ chỗ đều Từ Thị.-Cửa cửa gặp Thiện Tài "

Chỗ không Phật làm Phật ...kiến tánh vui thay ! 

Sanh tử bình thường như khoác vào áo mới. 

Kính đảnh lễ Thiền Sư Từ Minh Sở Viên ... tạo niềm phấn khởi ! 



Đốn ngộ, tiệm tu  do bởi căn cơ 

Đích đến cứu cánh chẳng tột ...đến bao giờ ? 

Thuốc nhiều bịnh lắm, lưới dày cá đặc! 



Huệ Hương 

Melbourne 16/3/2021 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/03/2015(Xem: 7766)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
15/03/2015(Xem: 6409)
Tôi có hai người bạn. Là bạn nhưng họ trẻ hơn tôi quãng chục tuổi. Là bạn vì chúng tôi khá quý mến nhau, có nhiều điểm tương đồng và hay sinh hoạt bên nhau. Tên khai sinh của họ là Châu Thương và Mỹ Hằng. Pháp danh của hai bạn này là Nguyên Niệm là Thánh Đức. Điểm thú vị rằng đây lại là một cặp vợ chồng.
14/03/2015(Xem: 8456)
Việc tu hành trên hết là để giải tỏa áp lực của tâm lý. Và áp lực đó nếu nghĩ theo cách thông thường, thì nó luôn đến từ ngoại giới. Vì chúng ta sống trong đời sống, mà không có một tấm lòng để gió cuốn đi. Mà chúng ta chỉ sống với nhau luôn bằng tham, sân, si, cho nên áp lực sẽ đến với chúng ta liên tục là đương nhiên. Nhưng nếu chúng ta quanh năm ngồi một chỗ không đi đâu cả, thì tâm lý vẫn có vấn đề khó khăn như thường. Đó là do chúng ta luôn sống trong vọng tưởng, và ảo tưởng mà thành ra như thế thôi.
13/03/2015(Xem: 9872)
Chánh Niệm cho Tình Yêu Bài của Đỗ Thiền Đăng Diễn đọc: Trọng Nghĩa - Mộng Lan
12/03/2015(Xem: 10311)
Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.
11/03/2015(Xem: 24221)
Món quà để lại lúc lâm chung của một vị Thầy thuốc Trung y cao tuổi, thật quá tuyệt vời! Tổng cộng có 100 điều, mỗi điều đều rất cao thâm, nên cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, nó sẽ giúp bạn đề cao nhận thức đối với sức khỏe!
11/03/2015(Xem: 8140)
Chúng tôi về thăm Trúc Lâm Bảo Sơn, huyện Tóc Tiên, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào cuối giờ chiều. Vùng đất nơi đây khá cằn cõi nhưng cây xanh thì rất nhiều. Đón chúng tôi là sư cô còn rất trẻ. Trà và mứt đủ loại được bày ra như một bữa tiệc. Hóa ra quý sư cô nơi đây sản xuất mứt, vừa để ăn, để tặng, vừa mang bán kiểm tiền kiến thiết chùa và giúp đời.
11/03/2015(Xem: 12881)
Đối với vạn vật trong cõi nhân gian, Phật giáo đều có sự quan sát thấu đáo, hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân có nhân lý, vật có vật lý, tình có tình lý, tâm có tâm lý. Trên thế gian bất kỳ sự vật gì cũng có cái “lý” riêng biệt của nó, địa lý phong thủy tất nhiên cũng có “nguyên lý” của nó.
06/03/2015(Xem: 8054)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt. Đêm đến, trời trong mây tịnh, vườn sau đón ngập ánh trăng, tạo một không gian huyền ảo lung linh. Đã không có những ngày xuân rực nắng, không có những đêm xuân ấm cúng tiếng đàn câu ca và những chung trà bằng hữu; nhưng chân tình của kẻ gần người xa, vẫn luôn tỏa sự nồng nàn, tha thiết. Cái gì thực thì còn mãi với thời gian thăm thẳm, vượt khỏi những cách ngăn của không gian vời vợi.
27/02/2015(Xem: 9395)
Con người sinh ra, họ khổ đau, rồi họ chết. Theo Anatole France, đó là điều mà kẻ uyên bác đã từng tóm lược về thân phận loài người. Mặt khác, một số nhà tư tưởng tự do nói rằng: "Con người là guồng máy nhỏ, cấu tạo bởi sự sắp xếp ngẫu nhiên của các nguyên tử và phát triển theo quá trình tiến hóa tự nhiên. Đau khổ không thể nào tránh khỏi trong cuộc đấu tranh của con người cho sự sống còn. Không có ý nghĩa nào khác hơn, cũng chẳng mục đích chi cao cả. Chết là sự tan rã của các phần tử hóa học; không còn gì tồn tại."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]