Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bảo hiểm sự chết (Death insurance) !! để sống vui.

14/02/202109:18(Xem: 5825)
Bảo hiểm sự chết (Death insurance) !! để sống vui.
Bảo hiểm sự chết (Death insurance) !! để sống vui.
Phổ Tấn
buddha_208

Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu. Nếu ở Mỹ thì SSI lo cho, nếu ở VietNam thì tiền hưu và con cái lo. Vậy mình đầu hàng give up rồi! Chỉ còn mỗi một việc sức khỏe và cái gì hạnh phúc tuổi già? Đó là death insurance: bảo hiểm cái chết. Khi sống thì mua life insurance: bảo hiểm nhân thọ. Chết thì mua death insurance. Vậy chỗ nào bán cái insurance nầy? Trả lời: Đức tin Tôn Giáo.

Tôi chọn Đạo Phật. Tôi là cư sĩ tại gia Phổ Tấn, mua death insurance là đi theo vết chân Phật. Đi thế nào mới đúng là giải thoát là thanh tịnh là hạnh phúc kiếp người? Đạo Phật như cánh rừng biết đường nào mà đi cho đúng, các thầy giảng như cánh rừng mọi phương mọi hướng nơi nào cũng nghe hay lắm. Mọi thầy đều gọi hãy lấy niềm tin trước hết vì chỉ có tin mới có tôn giáo. Einstein nói con người vì sợ chết nên có tôn giáo để giải phóng nỗi lo sợ này, nên tôn giáo không bao giờ bị tiêu diệt. Thiền sư Suzuki bảo chúng ta cảm nhận thân phận nhỏ nhoi của mình trước vũ trụ mà đẻ ra tính Kham Nhẫn chấp nhận sự nhỏ bé này và chấp nhận Thượng đế điều hành thân phận mình. Và vì thế mình hạnh phúc tuổi già phải không? Xin giao thân 5 uẩn này cho Phật, con sẽ hạnh phúc trong tay Phật? Tôi có viết bài Xá lợi Phất khai thị Cấp cô Độc với câu: hãy trả ngủ uẩn về lại cho ngủ uẩn và hãy chết thật sự dũng mãnh can đảm chấp nhận ngủ uẩn tan rã, các pháp trả về cho pháp vì là pháp Không. Thân ta cũng là Không.

Khi mình lớn lên vào đại học mình học khoa học tây phương để kiếm cơm và phụng sự loài người xã hội. Nhưng khi mình về già vượt qua đỉnh đồi của đường parabole cuộc đời thì mình quay về lại đông phương. Không phải vì mình là người Vietnam nên quay về đông phương mà chính người tây phương về già họ cũng thích quay về đông phương. Vì đông phương là chiếc gối êm ã cho tuổi già. Tây phương là duy lý, thời gian đối với họ là đường thẳng, không gian với họ là mặt phẳng hay 3 chiều. Thời gian quá khứ hiện tại tương lai là đường thằng còn đông phương là vòng tròn kín nên không có bắt đầu và cũng không có chấm dứt. Không gian theo đông phương là bất nhị không có nhị nguyên tính, nên không có cái nào riêng biệt độc lập với nhau mà cái này nằm lồng vào trong cái kia và xoay vòng nên gọi là duyên khởi (ngày nay vật lý gọi là không gian cong). Tây phương thì hạnh phúc là thực tế duy lý trí, còn đông phương là duy Tâm, nhưng đức Phật thì không duy lý cũng không duy Tâm mà là duy Không. Không ngã, không pháp, không trụ, không tướng, không bám, không bị trói buộc, không chấp, không vui không buồn mà là Lạc, không tham sân si, không cố định nằm yên một chỗ mà di chuyển giữa hai thái cực nên gọi là trung quán luận có Dịch hoá pháp. Tây phương thì xác định vị trí cố định còn đông phương thì không có vị trí nào cố định cả, vô thường là lẽ tự nhiên của vạn vật. Cái thường lạc ngã tịnh đối nghịch với vô thường vô ngã khổ và bất tịnh. Tất cả đối lập nhưng không chấp có cái nào đứng yên, vì thế nên gọi là Không. Vậy hạnh phúc tuổi già là an trú vào tánh không này. Khi đức Phật được Bà la Môn hỏi nơi nào để cho ta được an trú hạnh phúc và an lạc nhất? Đức Phật trả lời hãy an trụ vào Không. Muốn an trụ vào Không chỉ có thiền định mới đạt được. Vậy hạnh phúc của tuổi già là thiền định. Nguyễn Du nhà thơ bất hủ Vietnam đã có mấy câu thơ: Kim Cương ngã độc thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh, Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ, Chúng trị vô tự thị chân kinh. Dịch là: Kim Cang tụng đến ngàn lần; Mà trông hư ảo như gần như xa; Thạch Đài tìm đến hiểu ra; Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời. Không lời là tánh Không của Bát nhã hệ thống kinh Kim Cang. Nhà thơ Nguyễn Du lấy chữ Tâm làm cốt lỏi cho thơ của mình. Về già cũng tụng kinh Kim Cang lấy tánh Không làm chân lý. Như vậy ngồi thiền quán chiếu được Không như đức Phật chỉ dạy an trú vào không thì chúng ta bớt sợ chết, mà bớt sợ chết thì đó là chân lý hạnh phúc nhất của tuổi già. Đã hiểu sinh lão bịnh tử là quy luật, đã hiểu vô thường nên không cố định không có mọi cái gì đứng yên. Đã biết vô ngã cái tôi không có và vô pháp cái pháp chung quanh chúng ta không độc lập mà có do duyên hợp lại mà thành. Đã hiểu thời gian là vòng tròn kín thì không bắt đầu không chấm dứt thì ta chết rồi lại sinh ra, sinh ra rồi già chết, không đến không đi, không sinh không diệt. Như vậy ta bớt sợ chết, chính cái bớt sợ này làm ta chấp nhận chết như Cấp cô Độc chấp nhận ngủ uẩn tan rã, 5 uẩn trả về cho uẩn trong hư không mà chết thành A la Hán ngay tức thì.

Trở về với cái khởi đầu của con người gọi là Bản lai diện mục. Khi Lục tổ Huệ Năng ôm y bát chạy trốn về miền nam bị thượng tọa Minh rượt đuổi bắt kịp, người núp sau tảng đá và để y bát ra trên viên đá cho thượng tọa Minh lấy đi. Nhưng thượng tọa Minh khiên lên không nổi, sợ quá quỳ lạy cầu xin lục tổ Huệ năng tha thứ và chỉ dạy cho đạt ngộ đạo. Lục tổ hỏi cái gì là Bản lai diện mục của thượng tọa Minh, hãy quán chiếu trả lời. Thượng tọa Minh liền ngộ ra ngay tức thì và lạy tạ lục tổ. Khi chúng ta ôm một công án hay một nan đề tu tập lâu ngày mà không giải đáp được. Nếu có một thiện tri thức nào đó nhắc nhở gỡ rối cho ta thì tự nhiên ngộ đạo ra ngay gọi là đốn ngộ. Thượng tọa Minh đốn ngộ nghĩa Bản lai diện mục là cái trước khi người được sanh ra là cái gì. Tâm thức ta lúc chưa được sanh ra là cái thức, thức nầy chứa cái gì? Chứa Phật tánh và nghiệp lực. Nghiệp lực thì ta phải trả còn Phật tánh thì bị che mờ đi bởi vô minh. Vậy vén màng vô minh thì Phật tánh ló dạng như mây tan thì trăng hiện. Thấu hiểu như vậy thì đạt ngộ đạo thì là hạnh phúc của kiếp người về già. Thiền định để ngộ ra Bản lai diện mục của chính mình là gì thì đó là chân lý của hạnh phúc. Nghiệp lực thì sẽ sanh ra quả mà cần có duyên nằm ở giữa nên tu tập là chuyển duyên cho nghiệp nặng thành nhẹ. Duyên nầy do ta làm mà có tao ra nên ta phải có tuệ giác, tuệ giác là duyên chuyển nghiệp rõ ràng hiệu quả nhất. Mà tuổi già rồi làm sao có tuệ giác? Tuệ giác có sẵn trong ta chỉ cần bỏ hết vô minh thì lộ ra tánh giác này. Vậy bỏ vô minh, làm sao bỏ được đây? Vô minh là không biết cái gì? Không biết lý vô thường, vô ngã, không biết Tứ diệu đế, không biết 12 Nhân duyên, không biết Bát chánh đạo, không biết diệt trừ lậu hoặc theo Thất bồ đề phần. Rồi từ đó đi lên trên là tha độ là Bồ Tát hạnh và Phật thừa. Tu tập càng cao càng hạnh phúc càng giác ngộ càng thanh tịnh càng giải thoát.

Tóm lại Phật dạy câu cuối cùng trước khi nhập diệt:

“Tuổi ta đã già,

Cuộc sống nay chấm dứt.

Các người ở lại, ta sắp ra đi.

Sẵn sàng trú ẩn nơi mình.

Hỡi các tỳ kheo !

Hãy chánh niệm, tỉnh giác,

Trì giới, định tâm, nhiếp ý.

Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này,

Sẽ lìa vòng sanh tử, chấm dứt khổ đau."

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!!




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4435)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5309)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5522)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8647)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6528)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6260)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4554)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9799)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6256)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7754)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]