Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngồi Giữa Gió Xuân

07/02/202119:20(Xem: 5029)
Ngồi Giữa Gió Xuân

NGỒI GIỮA GIÓ XUÂN

 

 

          Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân”
Ngồi Giữa Gió Xuân

         Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư?

          Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực!

          Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?

          Đông lạnh lẽo gió mưa, kẻ trong chăn ấm, người ngoài phong sương, tấc lòng tương ái băn khoăn nào dứt?

          Chỉ mùa Xuân, người người tìm nhau đoàn tụ, muôn hoa tặng người thời kỳ mãn khai rực rỡ nhất để nhắc nhở người biết đến với người bằng Từ Bi Hỷ Xả.

          Có món quà cao quý này, chúng ta chỉ cần ngồi xuống bên nhau thì lập tức nắng hạ, mưa thu, đông rét mướt cũng trở thành gió xuân dịu dàng; Vì sân hận, oán trách, ác độc, bất công không thể tồn tại trong Từ Bi Hỷ Xả.

 

          Thời kỳ sắp đạt thành Đạo Cả, sa-môn Gotama đã dừng lại trong khu rừng bồ-đề râm mát bên giòng sông Ni-Liên-Thuyền, nơi đó sa-môn đã nhận bát sữa cúng dường của một cô bé trong làng, đã gặp chú bé chăn trâu tặng cỏ non êm mát làm tọa cụ.

Dưới tàng bồ đề đại thụ, sa-môn đã dũng mãnh lập nguyện: “Nếu không đạt thành Đạo Cả, ta thề không rời khỏi nơi này.”

          Lúc đó, đất trời đang giao mùa, dăm cành sầu đông khẳng khiu cựa mình thức giấc chờ đón ngọn gió xuân thoảng tới. Giữa bao la vạn hữu, Sa-môn ngồi kiết già, thinh lặng, thảnh thơi quán chiếu luân hồi để phát hiện tự ngã, đạt tới Bình Đẳng Tánh Trí.

Ngọn gió nào thổi qua khu rừng bồ-đề ven thôn nghèo Ưu Lâu Tần Loa, hướng đông nam Ấn Độ vào canh ba của một đêm mầu nhiệm cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm, có phải là ngọn xuân phong đã hớn hở bay khắp mười phương tám hướng báo tin Đạo Cả vừa tựu thành?

Gió đã mang tin vui đi khắp vạn hữu, nhưng Người Đắc Đạo vẫn lặng yên ngồi giữa gió xuân sau khi đã đạt Túc Mệnh Minh, thấy hết đoạn đường sinh diệt của mình trong các kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai; đạt Lậu Tận Minh, cái thấy vượt thoát sinh tử; đạt Tha Tâm Minh, Thiên Nhãn Minh, Thiên Nhĩ Minh, Thần Túc Minh, do nắm vững bí quyết của chánh niệm mà thấy hết, nghe hết, tới hết với trầm luân của mọi loài.

          Khi ánh dương rạng rỡ ở phương Đông, vị sa-môn mới chậm rãi đứng lên. Ngài đi về phía bờ sông Ni Liên Thuyền. Cũng con sông ấy nhưng nước sông như trong hơn, mát hơn khi bước chân Bậc Giác Ngộ chạm vào giòng   chảy. Có lẽ con sông biết, từ đây, nó đã đi vào lịch sử vì người vừa xuống tắm sẽ là bậc đạo sư vĩ đại của nhân loại.

          Còn ngọn xuân phong? Nó đã thông minh, chuyển hóa thành sương mai buổi sáng, nắng ấm buổi trưa hay mây nhẹ lãng đãng buổi chiều để theo dấu chân vị đạo sư suốt bốn mươi chín năm du hóa. Bất cứ thuyết giảng nơi đâu, vị đạo sư cũng tĩnh tọa an nhiên, tự tại như đêm đắc đạo tại rừng bồ-đề. Làm sao ngọn xuân phong có thể thiếu vắng để mang những lời thuyết giảng đi xa, thật xa, tới tận ngọn thông trên bao đầu non, hay cuối bờ cát cháy những mịt mù sa mạc.

          Chẳng thế mà, hàng nghìn năm sau, bất cứ nơi đâu có bóng dáng của hành giả biết “ngồi yên” với tâm trong veo tĩnh lặng, nơi đó đều phảng phất hương gió xuân, bất kể khi đó đang là mùa nào trong trời đất.     

Hình ảnh Tọa Xuân Phong, đúng nghĩa cả thân, tâm, ý, sẽ chính là Thân Giáo, biểu tượng sự thanh khiết, tinh sạch, làm cảm động những lữ khách đang bôn ba xuôi ngược giữa lốc xoáy của kiếp nhân sinh. Phút giao cảm đó, có kẻ đã biết dừng lại, ngồi xuống, tạm thả buông hệ lụy, thở thật sâu và bàng hoàng nhận ra, hạnh phúc đang ở ngay phút giây này.

          Dường như lần đầu, kẻ ấy nhận thức được là mình đang thở, mình đang sống. Vậy trước kia có thở, có sống không? Phải thở mới sống được chứ?

Vậy là, trước kia vẫn thở mà “không có thì giờ” biết là mình đang thở; vẫn sống mà “không có thì giờ” biết là mình đang sống. Vậy thì, ta đã từng thở như không thở, sống như không sống! Hèn chi mà ta luôn khổ đau, quẩn quanh trong hơn thua, còn mất, giầu nghèo, sang hèn …

          Giữa bận rộn của kiếp nhân sinh, chỉ cần đôi lúc biết ngồi yên, lắng tâm, nhìn vào bên trong, nghĩa là nhìn vào bản ngã đích thực của kiếp người, sẽ thấy ra những vô thường, biến dịch. Thấy được Vô Thường sẽ chấm dứt khổ đau vì khổ đau là gốc rễ từ những cái ta ngỡ là Thường! Như những đợt sóng khi còn, khi mất, đã lo sợ, lao xao tìm nước; nhưng khi sóng biết mình là nước thì sóng sẽ yên vui.

 

          Hành giả đã từng được ngồi như thế, cảm nhận rõ ràng được ngồi như thế trên những bãi cỏ ở Phương Khê, Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Mới, trong một mùa an cư tại Làng Mai, Pháp Quốc.

Mỗi lần dẫn chúng thiền hành, Thầy thường dừng lại nơi nào đẹp nhất, khoáng đãng nhất, và thị giả sẽ trải chiếc chiếu nhỏ dưới gốc cây. Đại chúng dừng lại theo Thầy, tự tìm chỗ ưa thích và ngồi xuống. Thị giả mở túi vải mang theo bình trà đã pha sẵn, lấy ra một chiếc tách đất nung, rồi chậm rãi, rót trà dâng Thầy. Thầy đỡ lấy bằng hai tay, tỏ  lòng cám ơn. Thị giả chắp tay búp sen đáp lễ rồi lùi sang bên, vén áo, ngồi xuống sau Thầy.

          Khi ấy, đoàn thiền hành cũng đã khoanh chân ngồi yên.

          Chẳng cần một lời mà thầy trò đang cho nhau ngàn lời.

          Không gian mênh mông. Bầu trời cao, trong xanh, lửng lơ mây bạc. Rừng cây bát ngát hương tùng, hương bách. Chim hát trên cây. Hoa nở dưới đất. Tất cả lặng thinh thể hiện sự kỳ diệu của:

          “Đã về. Đã tới. Bây giờ. Ở đây”   

          Thế thôi.    

          Không cần chi nhiều, chỉ cần từ bi với chính ta bằng cách biết cho ta đôi lúc ngồi yên, ta sẽ hạnh phúc như vị vua đời Trần, coi ngai vàng như đôi dép rách để trở thành Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm, Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự :

          “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

          Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn

          Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

          Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn” (*)

 

          “Phải, trái, như hoa rụng sớm mai

          Lợi danh buốt lạnh đêm mưa dài

          Hoa rơi, mưa tạnh, non u tịch

          Một tiếng chim ca, xuân dẫu phai!” (**)

          Sau đêm mưa lạnh, hoa rụng tơi bời, ta thấy gì khi hửng đông vừa hé rạng? Là những ngọn núi xanh rì, lặng thinh, tươi mát mà mưa kia chẳng thể cuốn trôi, hoa kia chẳng thể nhuộm héo. Trong tịch mịch tinh khôi ấy, mùa xuân dù còn đây hay đã qua, mà con chim về muộn vẫn cất tiếng hót hân hoan, bài ca của xuân bất tận trong tâm Bát-Nhã …

 

                                                Hạnh Chi                                      

                    (Nhớ về hương xuân Làng Mai, một mùa An Cư)

 (*) Trích bài “Sơn Phòng Mạn Hứng” của ngài Điều Ngự Giác Hoàng.

 (**) HC phỏng dịch

         




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4937)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5087)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4435)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4696)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3601)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5053)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]