Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
Người xa xứ thì chuẩn bị trở về miền cố thổ để sum họp với gia đình, còn người xứ xa thì khắc khoải buồn thương, nhận cái tết nơi đất người để tự an ủi mình trong những ngày xa biệt đáng buồn nhất trong một năm. Tình cảm đó, hay nói chinh xác hơn nghĩa tình đó chỉ có ở một nền phong tục, có trước có sau của dân tộc này mấy ngàn năm un đúc gầy dựng mới nên. Tất cả từ phong tục thiêng liêng nhất mà ra: Biết thờ cúng Tổ Tiên.
Là con dân đất Việt, là con cháu Hồng Lạc, ai cũng nhận ra điều vinh hạnh và rất đẹp tuyệt vời đó. Cho đến khi dấu chân tích trượng của các thiền sư Phật giáo, bước đến và in hằng trên mảnh đất này thì phong tục thờ cúng Tổ Tiên và những tập tục cao đẹp khác như được chắp thêm đôi cánh bay xa giữa vòm trời thực dụng mà đôi khi tưởng suýt mất hút giữa bao cơn gió độc của ngoại lai xâm thực. Bởi vậy, mới càng thấm thía biết bao câu thơ của Huyền Không :
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”
Khi mới vừa biết tìm hiểu Phật pháp, lòng nôn nóng và ngọn lửa nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn sẵn hừng hực trong tâm, nhìn và nghe việc gì cũng bằng ngọn lửa ấy mà quên đi bên cạnh còn có ông bà, cha mẹ mình đang sống với mình, và trong nhả ngoài bàn thờ Phật trang trọng ra còn có bàn thờ gia tiên uy nghi ngự trị. Đó là những lực cản mang giá trị tinh thần vô hình, kìm hãm được nhiều nông nỗi của một thời tuổi trẻ hăng say mà anh em chúng tôi cứ nghỉ rằng mình làm như vậy là đúng. Nếu không thì những bàn thờ ông thiên, thần tài, thổ địa trong nhà đã được dẹp mất theo sự cưng chìu của gia đình rồi.
Vậy đó, mà ngày nay, trước nhiều mối nguy họa đe dọa đến truyền thống dân tộc, mỗi khi có dịp đi đó dây, tùy theo vùng miền, ngồi trên xe nhìn ven đường thấy trước mỗi căn nhà dân không thấy bàn thờ ông thiên trong lòng lại dâng lên nhiều mối lo lắng và buồn phiền khôn nguôi! Vì sao vậy?
Nhờ đó mà lòng luôn trân quý, kính trọng biết bao thâm ân của chư liệt đại Tổ sư truyền thừa từ ngàn xưa, đã từng bước, từng thời, chắt chiu gầy dựng nhiều phương tiện để Phật pháp luôn đồng hành cùng dân tộc, tạo nên cốt cách, truyền thống văn hóa văn tộc có nhiều đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn này mà không thấy các quốc độ nào khác cũng có được.
Trong những năm còn khó khăn chung, có những chiều giáp tết, một vài anh em chúng tôi vẫn còn lang thang giữa bao chặng đường cơm áo, lòng chỉ mong sao sẽ về kịp đến nhà vào đúng lúc giao thừa, để đưa hết tiền công lao động cực nhọc cho ba mẹ lo chi tiêu cho đàn em nheo nhóc, chưa hề nghĩ đến cho bản thân một điều gì dù đó là muống một ly nước mía ven đường hay gặm một khúc bánh mì nguội. Vậy mà trong lòng vẫn rạo rực mùa xuân phơi phới như bao người, vẫn tươi cười với một phong pháo tiêu chuẩn mua được đem về cho gia đình.
Có những chiều cận tết, đi ngang nhiều xóm nhỏ miền Hậu Giang, thấy cả xóm phơi nhang vàng rực trước sân. Gia đình làm ít thì phơi nhang trên những dàn giá tre được thả khắp nơi chung quanh nhà có nắng đi qua; gia đình làm nhiều thì phơi dưới nền sân ngập nắng bằng từng túm to được xoay tròn dựng đứng trông rất đẹp mắt như những chùm pháo hoa tỏa rực. Có hỏi vì sao tết rồi mà bà con chưa nghỉ làm. Ai cũng đều hớn hở trả lời cả xóm sinh sống bằng nghề se nhang quanh năm, mần ăn nhờ có mấy ngày này, làm giao không kịp, thấy bắt ham. Rồi họ nói tiếp “Thôi để qua tết mình ăn tết sau thiên hạ vậy”. Ngày nay những nơi này đều biến thành làng nghề truyền thống. Khi đó làm nhang chủ yếu bằng mụn cưa mà thôi, nếu có làm nhang thơm thì chỉ là vỏ quế, vó bầu, hương hồi đâm nhuyễn trộn với mụn cưa, đã là quá sang rồi nhưng bán không chạy bằng nhang thường này. Qua những hình ảnh này, chúng ta có thể liên tưởng được nhu cầu thắp nhang của tuyệt đại đa số người dân Việt mình, hay ít nhất của một làng, một xả hay ấp nơi đó, mà thầm tin tưởng truyền thống thờ cúng Tổ Tiên, những người đã khuất và đặc biệt cúng Phật thường ngày v…v.. vẫn luôn được thường còn, góp một phần không nhỏ vào hình thái , tập tục đẹp ấy của dân tộc.
Chưa kể đến những ngôi chùa, đặc biệt các ngôi chùa Ni giới, việc se nhang một thời là nguồn thu nhập chính yếu của bản tự, nuôi sống tinh thần chuyên tu, chuyên học của rất nhiều thế hệ xuất gia, nhất vào những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống. Cũng thức đêm thức hôm ngồi se từng cọng nhang để kịp sáng ngày cho các sư cô, các điệu mang ra chợ ngồi bán. Những bàn tay thoăn thoắt trên bàn chà se nhang của quý chư Ni ngày đó luôn làm chúng ta chạnh lòng và thầm kính ngưỡng ý chí, tinh thần tu học, xả thân cầu giải thoát của họ. Một trong những tinh thần mà mỗi buổi khuya sớm công phu, họ từng đọc : “ Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”( Trong đời ngũ trược đầy ( khó khăn ) tội ác con xin vào trước).
Nhớ thời còn bé, mỗi dịp cúng kiến trong nhà hay thắp nhang thường ngày trên bàn thờ Phật và Gia Tiên, bà tôi luôn sai đi qua tiệm tạp hóa mua nhang, mà phải là thứ nhang không có mùi thơm, bà tôi đơn giản nghĩ rằng đó là mình góp phần ủng hộ người làm ra từng cọng nhang thân thiết, hay ủng hộ các chùa có se nhang để nuôi tăng chúng tu học. Cho đến tận hôm nay, gia đình vẫn còn giữ nếp nghĩ đó và vẫn thực hiện việc thắp nhang như bà ngày trước từng làm. Vào cuối thập niên 80, loại nhang màu đen của Thái Lan tràn ngập thị trường Việt nam, hương thơm của nó làm điên đảo bai người và xem đó là loài nhang rất quý thời đó. Khi đó ít ai nghĩ rằng đó chính là những loại nhang có tẩm hóa hóa chất hay hương liệu nhân tạo. Gia đình tôi thì không dám sử dụng vì bà tôi còn đó và các thanh viên trong gia đình không thể quên ngay trong đêm cúng giao thừa, trên bàn thờ trong nhà hay ngoài sân, bà cấm tuyệt đối và gởi trả lại vài hộp nhang ấy cho dâu, rể làm quà biếu ngày tết! Bà tôi đã mất lâu rồi nhưng vẫn còn gìn giữ và vẫn thắp nhang đầy đủ mà không vì chống khói độc hại mà dẹp bỏ truyền thắp nhang của dân tộc, ông bà Tổ Tiên mình.
Như chúng ta đã biết, hiện nay những tín ngưỡng không có chủ trương thắp nhang (hương) và cũng đã từng lên tiếng đả kích dù biết rằng sẽ đụng chạm đến nên tảng đạo lý dân tộc; nhưng nhiều năm qua họ cũng đã mở rộng tư duy, chấp nhận việc thắp nhang, dù động thái đó còn nhiều khiên cưỡng. Trong khi Phật giáo thì có hẳn nhiều nghi thức cho việc thắp nhang như dâng hương, tán hương, cúng hương v…v…mỗi lần như thế đều có động thái rất thành kính, rất đẹp. Cũng như việc thờ cúng Tổ Tiên, đã hình thảnh hẳn những ý nghĩa từng động thái như Sá, Lạy, Bái và thực hiện bao nhiêu lần như thế trong từng ý nghĩa của mỗi cuộc lễ. Vậy mà thời gian qua việc thắp nhang như bị đầy lùi, xa dần những nơi có thờ Phật, và cũng đã có ý kiến khuyên không nên thắp nhang vì khói có chất độc ! Nghĩ mà thương cho các làng nghề se nhang của xứ sở mình, thầm trách những ai đả kích việc thắp nhang cũng như tự giận mình ( chứ không dám giận họ ) rằng sao không vào những xưởng sản xuất nhang công nghiệp, các hóa chất, các hương liệu họ sử dụng ra sao để thay cho hương thơm tự cõi lòng người dân hiền lành, chất phát tự bao đời dâng lên chư Phật và Tổ Tiên của mình! Để làm ảnh hưởng, tai tiếng không tốt cho những cây nhang vốn mộc mạc, bình dị và gần gũi với bao người ?
Bây giờ thì khác ngày đó nhiều lắm nhưng nghề làm nhang của những xóm làng mình từng đi qua và nhìn thấy đó vẫn không thay đổi, có chăng là nghề của họ được tôn trọng, nâng cao khi những đứa trẻ ngày xưa còn lăng tăng chạy phụ cha mẹ ôm từng bó nhang vừa se xong đem ra sân phơi, nay đã là các vị bác sĩ, kỹ sư hay nhà giáo; họ được lớn lên, trưởng thành bằng chính cái nghề âm thầm này của cha ông họ. Cả đất nước này, có rất nhiều, nhiều lắm những ngôi làng, xóm, thôn sinh sống bằng nghề se nhang lương thiện này mà nếu có một thống kê đầy đủ chắc chắn sẽ là một con số không nhỏ. Bởi vì, tập tục, truyền thống văn hóa quê hương mình vẫn còn đó tinh thần thương nhớ cội nguồn, thờ kính Tổ Tiên, và cũng chính vì truyền thống đó mà đã có biết bao nhiêu sự xả thân cứu nước và dựng nước của nhiều thế hệ lịch sử vẻ vang. Từ nền tảng chân lý của đạo nghĩa Tứ Ân, Phật giáo đã giúp nâng cao thêm giá trị nhiều mặt của việc thắp nhang.
Có một câu hỏi của bà tôi cho đến bây giờ anh em gia đình vẫn chưa có câu trả lời. Khi bà đã xa anh em chúng tôi rồi, nhìn và suy gẩm từ trong thực tại mới giật mình nuối tiếc mỗi khi cầm trên tay bộ 3 cây nhang cúng giao thừa, đó là “Tại sao bây giờ tiến bộ rồi, có biết bao nhiêu thứ nhang được tẩm đủ thứ mùi thơm để bán đắt hàng, mà riêng ba cây nhang lớn dùng để cúng rước Ông Bà trong đêm giao thừa, loại nhang mà gia đình nào dù nghèo hay giàu cũng đều phải mua, họ không dám cho vô đó bất cứ mùi thơm nào ?”.
DƯƠNG KINH THÀNH
***